Đức Phật Và Nhân Sinh

Chia sẻ giáo lý đạo Phật

Đức Phật Và Nhân Sinh

Chia sẻ giáo lý đạo Phật

01.TRUYỆN TRÊ CÓC

Khuyết danh

Truyện đời có cổ có kim,
Ngẫm trong vật lý mà xem cũng kỳ.
Những tuồng loài vật biết gì,
Cũng còn sự lý tranh thi khéo là.

Nhớ xưa Trê, Cóc đôi nhà,
Vì tình nên phải sinh ra oán thù.
Cóc quen vui thú bờ hồ,
Khi ra đài các, khi vô cung đình.
Tới khi thai sản thành hình,
Xuống ao Trê đẻ đem mình thoát xong.
Nhìn xem Cóc những mừng lòng,
Trở về ngồi chốn nghiêm phòng nghỉ ngơi.

Chàng Trê đâu mới tới nơi,
Thấy đàn nòng nọc nhảy ngoi rầm rầm.
Nhìn xem dạ những mừng thầm,
Giống Trê như lột chẳng lầm vẻ chi.
Bắt về yêu dấu bù trì,
Con nuôi cũng chẳng khác gì con sinh.

Hay đâu Cóc cũng vô tình,
Nhớ ngày đầy cữ ra rình thăm con.
Tới nơi chờ đợi nỉ non,
Bờ trơ, cõi vắng, nước còn tăm không.
Âm thầm nghĩ cũng giận lòng,
Vội vàng nhảy xuống bên trong dạo tìm,
Bọt bèo lầm nước tối tăm, ?
Động tin, Trê mới nổi lên hỏi dò.
Lắng ra thấy cóc bên bờ,
Trê liền quát mắng, tri hô vang rầm:
“Cóc kia! đâu đó tối tăm ?
Dạ gian phi đạo, tắc dâm chẳng lành.”
Cóc rằng: “Ai kẻ gian manh,
Gây ra những sự sinh tình gớm ghê.
Vì con nên phải sớm khuya,
Không dưng ai có đến chi chốn này !”
Nghe lời Trê tức giận thay,
Vểnh râu, mắng Cóc chua cay lắm điều :
“Cóc kia cả quyết gan liều,
Bọn người coi đã mỹ miều lắm thay.
Một ngày lạ giống chúng bay,
Nghề bôi vôi vẫn nồng thay chẳng chừa.
Một tội mất, mười tội ngờ,
Biết đâu mà khéo tri hô hỏi dồn.
Thôi đừng đua dạy tranh khôn,
Trở về ngồi tốt gậm giường cho xong !”
Cóc ta dương mắt trừng trừng,
Rằng: “Khôn, ngươi cũng ở trong ao tù.
Ta đây dẫu có hèn ngu,
Nhà ta cũng có cơ đồ đỉnh đang.
Ra vào gác tía nhà vàng,
Cõi bờ mặc sức nghênh ngang chơi bời.
Nghiến răng chuyển bốn phương trời,
Ai ai là chẳng rụng rời sợ kinh.
Tuồng gì giống cá hôi tanh,
May chăng được một môi canh ra gì.

Cầm lòng Cóc trở ra về,
Vợ chồng bàn định sớm khuya ngại ngùng,
Rằng: “Con đương độ ấu trùng,
Xa xôi non nước lạ lùng biết sao.
Khuyên chàng chớ nghĩ thấp cao,
Công bao cũng chịu, của bao cũng đành.”
Cóc rằng: “Sao khéo lo quanh,
Can chi chịu phí, xem tình làm sao.
Đàn bà nông nổi khác nào,
Biết đâu những chuyện mưu cao mà bàn.
Trên kia đã có lòng tham,
Được thua quyết kiện một đơn xem mà.
Kêu oan đến cửa quan nha,
Làm đơn mà khống minh tra cho tường.”

Đơn rằng:
Trung đình phủ, Tường miếu huyện, Bích gia xã, Thạch cốc thôn, Trần văn Cốc, khấu bẩm vì khổ ức sự, một chút tình duyên, vì có đàn con, vốn xưa ở cạn, tới khi có nghén, sinh ở ao Trê. Trai gái đề huề, một đàn nòng nọc. Đương cơn sinh dục, hiện có tứ bề : danh Chép, danh mè, danh Măng, danh Trắm ; cậy người đỡ tắm, mụ Diếc, mụ Rô, mượn nguời thăm dò anh Lươn, anh Trấu..Tìm nơi nương náu, Cóc mới về quê, vì nỗi thê nhi, Cóc ra thăm viếng. Bốn bề im tiếng, chẳng thấy một ai, Cóc hỏi khúc nhôi, Trê liền thét mắng, sinh tình ngạnh ác, cố dạ gian tham. Đạo nghĩa cha con, khôn đường nhẫn nhục. Vi thử cụ đơn, khấu bẩm đường quan, soi xét lòng đơn, xin người cứu vấn. Nhờ ơn son phấn, yên phận thê nhi, vạn vạn bái.

Kim khấu bẩm:
Phủ quan nghe tỏ lòng đơn,
Truyền đòi nha lại các phiên vô hầu.
Xem đơn danh Cóc gót đầu,
Đoạt nhân thủ tử nhẽ đâu làm vầy.
Thực hư tình ý chưa hay,
Cứ trong đơn khất cũng ngầy lắm thôi.
Truyền cho thảo trát vô đòi,
Mấy danh chứng tá giải hồi nghiêm tra.
Các thầy vâng lệnh trở ra,
Đòi tiền thông lệ bản nha tức thì.
Trát thảo cho dấu chữ y,
Truyền cho lệ dịch tức thì phát sai.

Trát rằng:
Hải giang phủ, tri phủ Đàm, vi phát lệ binh nhất danh y phải tùy hành, cứ hương lý dịch, thân dẫn danh Trê, chứng tá các bề, truyền đòi cho hết, cùng người bàng tiếp, danh Chép, danh Mè, danh Măng, danh Trắm, cụ thử nhất đoàn, duyên cố nguyên đơn, danh Trần văn Cóc, thân tình ức khổ, vi thử đẳng danh, đồng đảng gian manh, đoạt nhân thủ tử, vi thử hợp trát, giang giải hồi trình, lập tức dẫn thôi, y như trát nội, hợp trát.

Lệ binh vâng trát thôi đòi,
Bộ hành mới kéo về nơi Thanh trì.
Truyền đòi lý dịch tức thì,
Dẫn thôi thủ phạm danh Trê ra hầu.
Nghe tin chứng tá đâu đâu,
Sửa sang chè rượu cùng nhau khuyên mời.
Lệ rằng: “Quan pháp như lôi,
Chỉ đâu đánh đấy chẳng đâu là lành.
Trê kia là đứa gian manh,
Chúng ngươi họp đảng đồng tình nhất môn.
Đây mà cứ phép việc quan,
Thời bay thịt nát xương tan chẳng lành.
Song bên lý có bên tình,
Liệu sao các việc thỏa tình người ta.
Kẻo khi quan lại còn xa,
Đây mà nổi giận lôi ra kéo vào.”
Chàng Trê ngóc cổ liền kêu,
“Dân đen có biết chi điều gian ngoan.
Vì ai nên phải tiếng ai,
Dám xin mấy cậu liệu đường giúp cho.
Chữ rằng: “Nhất nhật tại tù ,”
Hết bao nhiêu cũng xin lo dám nề.
Còn như danh Chép, danh Mè,
Cũng trong luân lý một bề với tôi.
Sửa sang lễ vật lên hầu,
Có tôi đã đứng là đầu thời xong.”

Lệ nghe lời nói êm lòng,
Bèn đưa nhau đến cửa công tạ trình.
Lệ vào lạy trước công đình,
Trát sai đã bắt đẳng danh hồi trình.
Quan liền chỉ phán phân minh :
“Trê kia sao dám gian manh làm vầy ?
Nguyên đơn danh Cóc ngồi đây,
Đoạt nhân thủ tử việc này có không ?”
Trê vào lạy trước vừa xong,
Cất đầu kể hết sự lòng xa xôi:
“Sự này tại chú Cóc tôi,
Dạ gian vô cớ xuống ngồi bên ao.
Bấy giờ tôi có kêu rao,
Hỏa quang kiến diện qua rào nhảy ra.
Sợ rằng: ngỏ tiếng tăm ra,
Vậy nên trước phải qùy thưa đỡ đòn.
Ví dù Cóc lại có con,
Lẽ đâu để cách nước non sao đành.
Đầu đen là giống phù sinh,
Dám xin soi xét ra tình kẻo oan.”
Quan rằng: “Bây khéo gian ngoan.
Truyền đòi chứng tá tiếp bàng hỏi qua.
Mèo, Nheo, Trắm, Chép nhảy ra,
Khấu đầu lạy trước quan nha diện trình :
“Chúng tôi thật kẻ vô tình,
Xưa nay vẫn thực hiền lành biết chi.
Mặc ai vùng vẫy giang khê,
Biết thân tránh khỏi lưới nghề là xong.
Biết đâu Trê, Cóc sự lòng,
Buộc cho đôi chữ phù đồng khổ thay !
Đèn trời soi xét gian ngay,
Lẽ đâu ao cá vạ lây cháy thành.”
Cóc vào bẩm trước công đình :
“Chẳng qua các chúng đồng tình mưu gian.
Người thân thích kẻ lân bang,
Cùng trong vây cánh một đoàn nó thôi.
Vả trong đất nước khác vời,
Cóc khô ở chốn quê người biết sao.
Ngửa trông lạy đứa quan cao,
Cứu đàn con nhỏ phiêu lưu kẻo mà.”
Quan truyền: “Cho Cóc lui ra,
Đem trê giam đó hậu tra vội gì .”
Lệ binh vâng lệnh tức thì,
Đem Trê vào trại liền mi chẳng chầy.
Canh giờ nghiêm cấm khổ thay !,
Mười người nhắm một, đều tay lấy tiền.
Quan cứ lệnh, lính cứ truyền,
Đã ngày cổ buộc, lại đêm chân cùm.
Giam tra thịt nát xương tan,
Đánh cho mấy chục, chập đòn roi đôi.
Vợ chồng Trê những ngậm ngùi,
Ra vào phí tổn hết bao cũng đành.
Có công lặn suối trèo ghềnh,
Tìm người lý sự hỏi tình sâu nông.
Xa nghe Triều Đẩu anh hùng,
Đưa tin hoàng tước hỏi cùng phải chăng.
Đầu đuôi mấy khúc thưa rằng:
“Thực tôi là phận tảo tần chàng Trê.
Nay đơn chàng Cóc tâu quì,
Vậy nên Trê phải giam mi tại tù.
Đàn bà ngu dại vụng lo,
Đội ơn quan bác liệu cho phận nhờ.”
Kình rằng: “Chẳng ngại việc chi,
Đây ta nào phải lụy gì đến ai.
Có tên Lý Ngạnh thôn ngoài,
Cũng trong thủ hạ tôi đòi ta đây.
Vốn người độc ác xưa nay,
Cho đi giúp chúng việc này hẳn xong.”
Trê nghe thấy nói mừng lòng,
Liền qùy lạy Ngạnh kể thông mọi lời.
Sửa sang đồ vật thảnh thơi,
Tôm he, cá mực đủ mùi trân cam.
Ngạnh rằng: “Quan sự dã am,
Những phường cáo giả oai hầm ghê thay.
Việc quan muốn xử cho xong,
Thời trong lại bộ có thầy thông Chiên.
Muốn cho trong ấm ngoài êm,
Phải đưa lễ tốt các phiên mới dành.”
Ngạnh vào tư thất bẩm trình,
Trê ra lạy trước công đình tâu thân:
“Gọi là lễ mọn kính dâng,
Dám xin soi xét phận dân ngu hèn.
Chàng Trê giam chấp mấy phen,
Cũng vì điên đảo làm thiên án từ.
Lòng ngay chẳng dám mưu mô,
Lưới Thang rộng mở ơn nhờ xiết bao.”
Quan rằng: “Kêu vậy biết sao,
Đây ta cũng chẳng xuy mao cầu tì.
Cứ trong tình lý mà suy,
Thời như đơn Cóc có khi cũng huyền.
Cho đồng đối tụng hai bên,
Có bên bị, có bên nguyên mới tường.”
Cóc ngồi chực sẵn bên tường,
Nghe lời quan phán vội vàng nhảy ra :
“Trê kia chớ có huyên hoa,
Hùm dầu có cánh ta đà chẳng ghê.
Quả tình nào có hồ nghi,
Ra điều bán dạ lâm trì khó coi.
Phù sinh mấy kiếp ở đời,
Làm cho rắn cắn được voi còn chầy.
Chỉ nghề dạy khỉ leo cây,
Xui nguyên dục bị, chỉ hay bày trò.
Ai ngờ xã thử thành hồ,
Chỉ điều cậy thế làm cho hại người.
Biết rằng hươu chết tay ai,
Mỏ chim, nanh chuột tranh hơi còn nhiều.”
Quan rằng: “Bây chớ rối điều,
Việc quan chẳng lọ nhiều kêu mới là.
Lệ đâu đòi mấy thầy nha,
Cho đi nghiệm thực hậu tra mới tường.
Trê kia quả có tính gian,
Cứ trong luật lệ y đơn mà làm.”

Các thầy vâng lệnh lên đường,
Theo chân thầy tớ một đoàn thong dong.
Kéo về đến chốn ao trong,
Cho đòi tổng tiếp điều cùng khám thăm.
Thấy đàn nòng nọc lăm xăm,
Vẫy vùng mặt nước đen rầm như Trê.
Nha rằng: “Sự chẳng hồ nghi,
Đầu đuôi hình tượng giống Trê đó rồi.”
Khám tường biên thực chẳng sai,
Sự tình nha lại tức hồi trình qua:
“Ngửa trông đôi đức cao xa,
Vâng sai án nghiệm minh tra tỏ tường.
Trê kia quả có tình oan,
Hiện có tổng tiếp ký đơn về trình.”

Đơn rằng:
Hải giang phủ, Đường hào huyện, Thái cốc xã, Hùng văn Trê trình về phúc bẩm sự. Mấy khúc đầu đuôi, hiện có mấy người, thường đi thường lại, ở chốn ao sen, bất ý đương đêm, Cóc vào xuyên tạc, Trê liền phát giác, Cóc nhảy qua rào, cậy thế hùng hào, vậy nên nại chứng. Thay trời trị chúng, tiếng trống nghìn quân, nhờ lượng đường quan, cho về khám xét, đầu đuôi tình tiết, như đã biên tường, vị thử cụ đơn, trông ơn khám xét, minh tra các tiết, tỉ đắc thân oan, vạn vạn bái, kim khấu bẩm.

Quan truyền bắt Cóc ra tra:
“Sao bây kiện sai ngoa làm vầy ?
Nay đơn nha khám về đây,
Trê kia là đứa tình ngay có gì !”
Cóc ra lạy trước sân quỳ,
Bẩm rằng: “Lại dấu cho Trê lắm điều.
Chẳng qua hối lộ đã nhiều,
Vậy nên mới nói mè nheo những lời.”
Bản nha tức giận mọi người,
Bẩm xin tội Cóc ra ngoài trại canh.
Truyền cho thẩm xét phân minh,
Ký giam ở đó kẻo tình còn oan.

Cóc ngồi dài thở ngắn than,
Những là đứt ruột, căm gan cho đời.
Biết chăng có một ông trời,
Nghiến răng có thấu xin soi đến cùng.
Ai làm oan thác sự lòng,
Thì xin tiếng sấm cửu trùng nổi lên.
Cóc ngồi trằn trọc thâu đêm,
Vợ chồng bàn định nỗi niềm trước sau.
“Phải tìm thầy thợ cho mau,
Để cho thiếp được trước sau rõ mười.
Đua nhau cái trí mà thôi,
Chẳng mừng chi được, chẳng ngùi chi thua.
Thiếp xin đi lại toan lo,
Làm cho trả được oán thù mới thôi.”
Cóc về dạo khắp các nơi,
Qua miền Chẫu chuộc, tới miền Ễnh ương.
Thôi lặn suối lại trèo nương,
Giếng sâu bụi bặm lòng càng ngẩn ngơ.
Vô tình đương lúc mây mưa,
May sao thấy Ếch ngẩn ngơ cõi ngoài.
Ếch đương quen thú ngồi chơi,
Nhác trông thấy Cóc sắp rời chân ra.
Rằng: “Đâu mà đến đây ta ?
Cớ sao thân thể coi mà kém xuân.
Hay là có việc chi chăng ?
Đầu đuôi ngỏ thực xin đừng giấu nhau.
Cóc rằng: “Có việc chi đâu,
Vì chồng con phải lo âu chưa đành.
Trê kia là đứa gian manh,
Bắt con mà lại sinh tình sai ngoa.
Làm đơn đút lót quan nha,
Vậy nên Cóc phải giam tra thế này.
Cố công lặn suối tới đây,
Nhờ chàng liệu giúp việc này họa xong.”
Ếch rằng: “Đồng trắng, nước trong,
Tôi đây tiếng cả nhà không có gì.
Thấy lời chị nói nằn nì,
May ra giúp được việc chi cũng đành.
Nghề tay thầy kiện trứ danh,
Có chàng Nhái bén thực anh bợm già.
Đơn từ, mẹo mực vào ra,
Bàn tay tráo trở coi đà ngon không.
Muốn cho các việc được xong,
Phải tìm cho đến hỏi cùng sự duyên.
Cóc nghe Ếch nói căn nguyên,
Trở về dạo khắp các miền hỏi thăm.
Nước non cây cối âm thầm,
Một mình Cóc lại xăm xăm một mình.
Hay đâu cảnh thú hữu tình,
Lùi chân bóng mát, nương mình cõi râm,
Gió mưa ngọn cỏ dâm dâm,
Nhác trông thấy Bén đương nằm nghỉ ngơi.
Chào rằng: “Chị Cóc đến chơi !
Việc gì mà phải tìm tòi đến ta ?
Dặm nghìn non nước thẳm xa,
Cớ sao mà khéo lân la biết đường .”
Cóc rằng: “Muôn đội ơn chàng ,
Vì tình nên phải đa mang vớì tình.
Nói ra lắm sự bất bình,
Vì Trê nên phải đem mình đến anh.
Xiết bao kể nỗi ức tình,
Nhịn đi chẳng được, tức mình lắm thôi.
Cố lòng lấy thịt đè người,
Đơn từ điên đảo mấy hồi khổ thay.
Quan tham, lại cũng chẳng ngay,
Vậy nên bắt Cóc tội đày bấy lâu.
Nghĩ tình càng thảm, càng sầu,
Biết ai là kẻ nông sâu mà bàn.
Vậy nên bao quản đường trường,
Trước vì biết Ếch sau tường tôn nhân.
Dù trong lẽ dại đường khôn,
Dám xin chỉ giáo tôi con được nhờ.”
Bén rằng: “Ngán chuyện đàn bà,
Làm gì việc ấy khéo mà nói quanh.
Tuy cùng một kiếp phù sinh,
Giống nào giống ấy, tranh giành làm chi ?
Trê kia là đứa ngu si,
Chẳng qua tham dại nghĩ gì nông sâu.
Thôi đừng kiện cáo chi nhau,
Con đương dưới nước, dễ hầu làm chi.
Để cho Trê nó bù trì,
Đứt đuôi nó lại tìm về là hơn.
Muốn cho êm ái đôi bên,
Thời đem trình phủ mà xin Cóc về.
Nhược bằng có dạ tranh thi,
Lại làm đơn phục cho Trê khó gì ?”
Nghe lời Cóc cũng nằn nì :
“Làm cho bõ ghét cho Trê mới đành.
Kẻo Trê nó cũng cậy mình.”
Nghe thôi, vợ Cóc tạ trình ra đi.
Trở về cửa phủ tức thì,
Dặn chồng sau trước mọi bề đinh ninh.
Lại về chốn cũ thăm tình,
Quả như Bén nói rành rành chẳng sai.
Cười cười nói nói tả tơi,
Sửa sang lễ vật tới nơi công đường.
Cóc vào lễ tước, quỳ đơn,
Theo sau một lũ Cóc con sang trình.

Đơn rằng:
Nguyên danh Cóc trình vi khất thôi cứu sự, vì Trê gian khiếu, nên Cóc thân oan, sự đã tỏ tường, vậy nên tục khống. Trời sinh có giống, ai dám trang càn, Trê quả lòng gian, tìm đường giam chấp; mấy phen thăm bắt, tin tức vắng không. Nay đã khỏi vòng, trở về đất cũ, trần tình cụ thử, đồng đồ nhũng tệ, Cóc tôi yếu vế, vậy phải chịu im, vị thử phục qui, ơn trên soi xét. Giãi bày các tiết, nhờ lượng cao xa, dân được điều hòa, khỏi điều oan khốc.

Trình đơn trước mặt công đình,
Phủ quan nổi giận lôi đình thét vang.
“Sự đâu có sự dị thường,
Nha môn sao dám tự đương làm vầy.”
Truyền đòi nha khám ra đây,
Giao cho Bang biện việc này mới xong.
Bản nha hiệp nghị một lòng,
Khấu đầu lại trước cửa công tạ tình.
Rằng: “Đem dấu trát tra minh,
Bắt Trê nhận thực tượng hình mới biên.
Chẳng qua con tạo đảo điên,
Sinh sinh hóa hóa, hiện truyền chi đây.
Chúng tôi giữ việc lòng ngay,
Dám đâu gian dối chuyện này cho đang.”
Quan rằng việc ấy dở=dang,
Truyền Trê ra trước công đương hỏi qua,
Roi đâu mấy chập đòn tra,
Gian ngay thú thực thưa qua cho tường.
Dám đâu nhận mệnh làm thường,
Cố nhiên kiếp đoạt đường đường như chơi.
Cứ trong lý luật mà coi,
Lưu tam thiên lý tôi ngươi đã đành.
Bao nhiêu đồ vật sắm sanh,
Truyền Trê phải chịu cho thanh mọi bề.
Cóc kia thôi chớ nằn nì,
Được con là trọng, kêu chi thêm càng.
Trê kia thực có lòng tham,
Đã đem đày chốn xa đường thì thôi.”
Quan trên chỉ phán mấy hồi,
Cóc vào trình lạy mấy lời bẩm qua :
“Ngửa trông đức cả cao xa,
Non công, bể đức kể đà xiết bao.
Đoái thương đến phận nhi tào
Gọi là lễ mọn đem vào tạ ân.”
Quan rằng: “Thôi chớ ân cần,
Thế thời cũng đã có phần hậu thay.
Khéo đâu lễ vật đặt bày,
Biết thôi trả lại cho bay đem về.”
Tạ từ Cóc trở ra về,
Vợ chồng mừng rỡ đề huề ngổn ngang.
Bước ra khỏi chốn công đường,
Thông Chiên dật lễ, Đề Tôm cướp tiền.
Ôm đầu vỗ vế ngả nghiêng,
Kẻ đòi bầu rượu, người xin bao chè.
Được kiện Cóc trở ra về,
Họ hàng náo nức ngồi kề mừng vui.
Chè sen rượu cúc thảnh thơi,
Cóc ngồi chịu chuyện, Bén ngồi ngâm thơ.
Vang lừng trong hội mây mưa,
Say sưa mặc sức, xướng ca thỏa lòng.
Mới hay duyên ngộ kỳ phùng,
Anh hùng tỏ mặt anh hùng hẳn hoi.

Ngẫm xem thế sự nực cười,
Cũng là dở cái trò chơi đấy mà.
Vẽ vời mấy tiếng ngâm nga,
Tỏ tường sự lý để ra với đời.
HẾT

02. GIA HUẤN CA

Nguyễn Trãi

Lời Mở Đầu

1. Đặt quyển sách, vắt tay nằm nghĩ,
Hễ làm người dạy kỹ thì nên,
Phấn son cũng phải bút nghiên,
Cũng nhân tâm ấy há thiên lý nào.

Dạy Vợ Con

5. Nhân thong thả lựa vần quốc ngữ,
Làm bài ca dạy vợ nhủ con:
Lời ăn nết ở cho khôn,
Chớ nên đa quá, đa ngôn chút nào!
Ăn mặc chớ mỹ miều chải chuốt,
10. Hình dung đừng ve vuốt ngắm trông,
Một vừa hai phải thì xong,
Giọt dài giọt ngắn cũng không ra gì?
Khi đứng ngồi chứ hề lơ lẳng,
Tiếng nhục nhằn nữa nặng đến mình,
15. Hạt mưa chút phận lênh đênh,
Tấm son tạc lấy chữ trinh làm đầu.
Kìa mấy kẻ làu làu tiết ngọc,
Đem sắt đanh nguyện lúc lửa châm,
Con hiền cha mẹ an tâm,
20. Một nhà khen ngợi, nghìn năm bia truyền.
Nọ những kẻ nước nguyền non hẹn,
Thấy mùi hoa bướm nghển, ong chào,
Miệng đời dê diếu biết bao,
Đông ra quốc pháp, nhục vào gia thanh.
25. Đem người trước lấy mình ngắm lại,
Khôn ba năm đừng dại một giờ,
Đua chi chén rượu câu thơ,
Thuốc lào ngọt nhạt, nước cờ thấp cao.
Đám dồi mỏ ra vào săn sóc,
30. Lại bài phu, tam cúc, đánh đinh,
Đố mười, chẵn lẻ, đố kinh,
Tổ tôm, kiệu chắn, sám quanh tứ chiều.
Đi đứng đắn, chớ điều vùng vẫy,
Khi tối tăm đèn phải phân minh,
35. Hoặc khi hội hát linh đình,
Đ ược lời dạy đến thì mình hãy ra.
Ra phải có mẹ già em nhỏ,
Đ ừng đánh đàn, đánh lũ không hay,
Nói đừng chau mặt, chau mày,
40. Nghe ra ngậm đắng nuốt cay hay nào!
Của tằn tiện, chắt chiu hàn gắn,
Khách buôn tàu chưa hẳn nơi đây !
Cũng đừng vắt nước cổ chày,
Tiếp tân tế lễ là ngày nên hoang.
45. Ăn ở chớ lòng mang khoảnh khắc,
Mua bán đừng điêu trác đong đưa,
Mua đừng ráo riết quá lừa,
Bán đừng bo xiết, ích ta hại người.
Chớ tắt mắt của người kém cỏi,
50. Đ ừng đảo điên có nói làm không,
Giàu sang cũng chớ khoe ngông,
Miễn mình ấm phận chớ lòng khinh ai.
Khó khăn chớ vật nài oán hối,
Hết bĩ rồi tới buổi thái lai,
55. Cầm cân, tạo hóa đổi dời,
Giàu ba họ, khó ba đời mấy ai?
Đừng học cách tham lời đặt lãi,
Lợi kẻ cho thì hại kẻ vay,
Dễ dàng nợ phải lay nhay,
60. Đến đầu đũa quá, e cay đắng nhiều.
Hoặc lỡ thiếu phải điều lĩnh tạm,
Dù ít nhiều liệu sớm tính xong,
Chẳng nên mê mẩn hơi đồng,
Qua lần cho khỏi thì lòng mới nguôi.
65. Thói mách lẻo, ngồi rồi bỏ hết,
Hễ điều gì nói ít mới hay,
Lân la giắt rợ, giắt rây,
Đã hư công việc, lại dày tiếng tăm.
Việc chợ búa chăm chăm chúi chúi,
70. Buổi bán xong liệu vội ra về,
Cửa nhà trăm việc sớm khuya,
Thu va thu vén mọi bề mới xong.
Phòng những kẻ có lòng gian vặt,
Nhỡ xảy ra một mất mười ngờ,
75. Tiếc thầm đứng ngẩn, ngồi ngơ,
Đau buồn thôi lại đổ cho tại trời.
Từ chốn ở, nơi ngồi thay thảy,
Rác ngập đường nhìn vậy chan chan,
Ai vào rác ngập ước chân,
80. Bát mâm tơi tả chiếu chăn đầy giường.
Tuy khó rách, giữ gìn thơm sạch,
Có hay gì chiếu lệch bụi nhơ,
Đồ ăn thức nấu cho vừa,
Thường thường giữ lấy muối dưa ngon lành.
85. Nghề bánh trái chiều thanh vẻ lịch,
Cũng học dần thói cách người ta,
Vá may giữ nếp đàn bà,
Mũi kim nhỏ nhặt mới là nữ công.
Thủa tại gia phải tòng phụ giáo,
90. Khi lấy chồng giữ đạo chính chuyên,
Lại là hiếu với tổ tiên,
Những ngày giỗ tết không nên vắng nhà.
Đồ cúng cấp hương trà tinh khiết,
Theo lễ nghi khép nép, khoan thai,
95. Ăn nhiều ăn ít cho rồi,
Nhớ điều ghẻ lạnh lễ thôi lại về.

Với Cha Mẹ

Dù nội, ngoại hai bề cũng vậy,
Đừng trành hanh bên ấy, bên này,
Cù lao đội đức cao dày,
100. Phải lo hiếu kính đêm ngày khăng khăng.
Bởi thương đến mới năng mắng quở,
Muốn cho ta sáng sủa hơn người,
Ân cần kẽ tóc, chân tơ,
Tấm lòng chép để mấy lời tạc ghi.
105. Đừng nặng nhẹ, tiếng chì tiếng bấc,
Đ ừng vùng vằng mặt vực, mặt lưng,
Có thì sớm tiến trưa dâng,
Cơm ngon canh ngọt cho bằng chị em.
Dù chẳng có thì yên một phận,
110. Người trên ta há giận ta sao!
Hoặc khi lầm lỗi điều nào,
Đánh đằng cửa trước, chạy vào cửa sau.
Khi ấm lạnh ta hầu coi sóc,
Xem cháo cơm, thang thuốc mọi bề,
115. Ra vào thăm hỏi từng khi,
Người đà vô sự, ta thì an tâm.
Việc báo hiếu phải chăm chữ hiếu,
Kiệm hay phong cũng liệu tùy ngơi,
Đừng điều tranh cạnh chia bai,
120. Xấu trong làng nước, để cười mai sau.

Với Chồng

Đạo vợ chồng tình sâu nghĩa ái,
Lại chẳng nên mặt tái, mày tăm,
Chuyện đâu bỏ đấy cho êm,
Đ ừng đem bên ấy về gièm bên ta.
125. Sách có chữ “nhập gia vấn húy”,
Khi nói năng phải kỹ kiêng khem,
Dịu dàng tiếng thuận lời mềm,
Cứ lời chồng dạy mới yên cửa nhà.
Chớ nên cậy mình ta tài sắc,
130. Chồng nói ra nhiếc móc chê khen.
Nói càn như ở bậc trên,
Thường khi động đến tổ tiên quá lời.
Cơn giận đến, sự đời ngang ngửa,
Dở dói ra nát cửa tan nhà,
135. Chữ “tùy” là phận đàn bà,
Nhu mì để dạ, chua ngoa gác ngoài.
Dù lỗi phận gặp người tửu sắc,
Hay gặp người cờ bạc lưu liên,
Nhỏ to tiếng dịu lời êm,
140. Dần dà uốn mãi may mềm được chăng !
Phải chồng ngược, cắn răng chịu khổ,
Chớ nghiêng đầu, ngảnh cổ thiệt thân,
Duyên may gặp được văn nhân,
Thuộc câu “tương kính như tân” làm lòng.
145. Nghiệp đèn sách khuyên chồng sập sã,
Tiếng kê minh gióng giả đêm ngày,
Khuyên chồng nhớ đến đạo thầy,
Vật dâng lớn nhỏ gọi nay lễ thường.

Với Vợ Lẻ

In lấy chữ tao khang chi nghị,
150. Đ ừng mang câu đố kỵ chi thường,
Dây bìm cho tựa cành vàng,
Trước chàng đẹp mặt, sau nàng đỡ tay.
Câu “đường cái” xưa nay cũng vậy,
Trai làm nên lấy bảy lấy ba,
155. Lấy về hầu hạ nhà ta,
Thêm hòe, nẩy quế có là con ai?
Cũng da thịt cũng tai mắt thế,
Kém ta nên phận ế hoa ôi,
Nghĩ tình ăn cạnh nằm ngoài,
160. Ấm no nên xót lấy người bơ vơ.
Thế mới phải phép thờ phu tử,
Ấy mới là đạo xử hài hòa,
Chữ “Tùy” rắn khúc nghi gia,
Môn đường thong thả, một nhà vẻ vang.

Với Bạn Hữu Của Chồng

165. Kìa những đứa mặt thường cau có,
Khách đến nhà chửi chó mắng mèo,
Cất lời nặng cỡ đá đeo,
Đã ra thét tớ lại vào mắng con.
Khách về đoạn sợ mòn mất chiếu,
170. Chồng ra đường chẳng kẻo mặt mo!
Hễ ngày bạn hữu giao du,
Sai người trải chiếu, sắp đồ tiếp ra.
Dù trăm giận thì ta để bụng,
Có trọng người mới trọng chồng ta.
175. Tùy người thết đãi rượu trà,
Nhớ rằng: Của gửi chồng ta đi đường!

Với Chị Em

Ấy là vẹn cương thường bằng hữu,
Lại phải tường trong đạo chị em,
Đạo em thì phải trông lên,
180. Đạo chị trông xuống cho êm đẹp chiều.
Miếng bùi ngọt chia đều như một,
Khi nắng mưa ấm sốt đỡ tay,
Với nhau như bát nước đầy,
Lá lành đùm bọc bóng cây rườm rà!
185. Đạo thúc tẩu một nhà minh bạch,
Lánh hiềm nghi tăm tích rõ ràng,
Trộm trông bóng đuốc Vân Trường,
Nức danh ba nước treo gương muôn nhà.

Với Trong Họ Ngoài Làng

Cả trong ngoài cùng là đàn cháu,
190. Xem như con yêu dấu chẳng sai,
Đồng quà, tấm bánh hôm mai,
Chớ điều dằn vật, chớ lời gieo đanh.
Từ họ mạc, láng giềng, hàng xóm,
Cũng ở cho trong ấm ngoài êm,
195. Tiếng chào, tiếng hỏi cho mềm,
Chẳng khinh ai cũng chẳng hiềm oán ai.

Với Những Khi Sản Dục

Ấy ngôn hạnh các lời hằng giữ,
Lại cần điều cư xử cho tuyền,
Hễ ngày sóc, vọng, hối, huyền,
200. Cùng ngày nguyệt tín phải khuyên dỗ chồng.
Khi thai sản trong phòng gìn giữ,
Học cổ nhân huấn tử trong thai,
Dâm thanh chớ để vào tai,
Ác ngôn chớ chút bợn lời sam sưa!
205. Từ xuất nhập, khởi cư, hành động,
Có lễ nghi nghiêm trọng đoan trinh,
Đứng ngồi chính đại quang minh,
Cho bằng phẳng thế, chớ chênh lệch mình.
Chớ vịn cao cũng đừng mang nặng,
210. Đừng ăn đồ cay đắng canh riêu,
Đừng ăn ít, chớ ăn nhiều,
Nuôi từ trong dạ khỏi điều lo xa.
Khi sinh nở thai hòa vô sự,
Cẩn từ khi trong cữ ngoài tuần,
215. Chiều sương chớ để áo quần,
Đỉnh đầu phải cúi, bước chân phải dò.
Nơi bếp vách đừng cho hơ lửa,
Ngọn đèn hoa chớ quở quá ngôn,
Kiêng khem trăm sự vuông tròn,
220. Trước mình yên dạ, sau con ít sài.

Với Con Cái

Ngày con đã biết chơi biết chạy,
Đừng cho chơi cầm gậy, trèo cao,
Đừng cho chơi búa chơi dao,
Chơi vôi, chơi lửa, chơi ao có ngày.
225. Lau cho sạch không hay dầm nước,
Ăn cho vừa, đừng ước cao lương,
Mùa đông tháng hạ thích thường,
Đ ừng ôm ấp quá, đừng suồng sã con.
Dạy từ thuở hãy còn trứng nước,
230. Yêu cho đòn bắt chước lấy người,
Trình thưa, vâng dạ, đứng ngồi,
Gái trong kim chỉ, trai ngoài bút nghiên.
Gần mực đen, gần đèn thì sáng,
Ở bầu tròn, ở ống thì dài,
235. Lạ gì con có giống ai,
Phúc đức tại mẫu là lời thế gian.
Làm mẹ chớ ăn càn, nói dở,
Với con đừng chửi rủa quá lời,
Hay chi thô tục những người,
240. Hôm nay cụ cụ, ngày mai bà bà.
Gieo tiếng ra chết cây, gãy cối,
Mở miệng nào có ngọn có ngành,
Đến tay bụt cũng không lành,
Chồng con khinh rẻ, thế tình mỉa mai!
245. Ấy những thói ở đời ngông dại,
Khôn thì chừa, mới phải giống người,
Sinh con thì dạy thì nuôi,
Biết câu phải trái lựa lời khuyên răn.

Với Dâu Rể

Tuổi cả khôn, hôn nhân trạch phối,
250. Giàu đừng tham, khó đói chớ nề,
Dâu hiền, rể thảo tìm về,
Xem tông xem giống kẻo mê mà lầm.
Xử với rể một niềm kính trọng,
Dù dở hay, đừng giọng mỉa mai,
255. Với dâu, dạy bảo phải lời,
Bắt khoan bắt nhặt, biết ai cho vừa!

Với Tôi Tớ

Gương giáo tử nhường đưa mặt nhận,
Mực trì gia đặt hẳn ân uy,
Bọt bèo là phận nô tỳ,
260. Dạy nghiêm, ở thảo hai bề vẹn hai.
Có câu ví “Chiều người lấy việc”,
Chẳng há nên ráo riết người ta,
Hay thì nó ở lâu ra,
Dở thì nó bước nào ta bận gì.
265. Một đôi kẻ phải khi lỡ độ,
Có thì cho chẳng có thì thôi,
Chẳng nên nhiếc mắng nhiều lời,
Cơ hàn hầu dễ có ai muốn gì.

Thờ Cúng

Trong nhà vận thịnh suy có mệnh,
270. Đạo quỉ thần thì kính viễn chi,
Nắng mưa giải kiết có khi,
Phải chăm cơm thuốc, đừng mê cốt thầy.
Nhà chẳng quét, quét hay có rác,
Đã bói ra, bỏ nhác sao đành,
275. Cao tay mấy kẻ có danh,
Bùa bèn chẳng bỏ là tinh hiện vào.
Suy cho thấu, tà nào phạm chính,
Cứ thánh kinh cảnh tỉnh dị kỳ,
Kìa như mấy kẻ tăng, ni,
280. Thôi tuần cúng Phật, lại khi vào hè.
Nam mô Phật rù rì hai chữ,
Đua nhau rằng tín nữ thiện nam,
Miệng rằng chừa độc chừa dâm,
Tay lần tràng hạt dao găm một bồ.
285. Kẻ trốn việc ở chùa cũng có,
Kẻ lộn chồng, trốn chúa cũng nhiều,
Gian ngoan rất mực làm kiêu,
Mượn danh Hòa thượng, lợi điều tham dâm.
Chẳng qua lũ ngu dân hoặc thái,
290. Phúc đức đâu nghĩ lại mà coi,
Trước sau có bấy nhiêu lời,
Bảo nhau gìn giữ nên người thơm danh.
Dù ai nấy có tình chẳng cứ,
Thói Thọ Dương vẫn giữ không chừa,
295. Ngày ngày mắng sớm đòn trưa,
Thường thường dạy dỗ mà ra tuồng gì.
Cành kia lớn sợ khi khó nắn,
Sắt nọ mài ắt hẳn nên kim,
Diễn nôm cho tiện mà xem,
300. Dạy nhà trước đã mới đem dạy người.

Dạy Con Ở Cho Có Đức

Lấy điều ăn ở dạy con,
Dẫu mà gặp tiết nước non chuyền vần.
Ở cho có đức có nhân,
Mới mong đời trị được ăn lộc trời.
305. Thương người tất tả ngược xuôi,
Thương người lỡ bước, thương người bơ vơ.
Thương người ôm dắt trẻ thơ,
Thương người tuổi tác già nua bần hàn.
Thương người quan quả, cô đơn,
310. Thương người lỡ bước lầm than kêu đường.
Thấy ai đói rách thì thương,
Rách thường cho mặc, đói thường cho ăn.
Thương người như thể thương thân,
Người ta phải bước khó khăn đến nhà.
315. Đồng tiền bát gạo mang ra,
Rằng đây “cần kiệm” gọi là làm duyên.
May ra ở chốn bình yên,
Còn người tàn phá chẳng nên cầm lòng.
Tiếng rằng: ngày đói tháng đông,
325. Ở phải có nhân có nghì,
Thơm danh vả lại làm bia miệng người.
Hiền lành lấy tiếng với đời,
Lòng người yêu dấu, là trời hộ ta.
Tai ương hoạn nạn đều qua,
330. Bụi trần giũ sạch thực là từ đây.
Vàng trời tuy chẳng trao tay,
Bình an hai chữ xem tày mấy mươi.
Mai sau bạc chín tài mười,
Sống lâu ăn mãi của đời về sau.

335. Kìa người ăn ở cơ cầu,
Ở thì chẳng biết về sau phòng mình,
Thấy ai đói rách thì khinh,
Cách nào là cách ích mình thì khen.
Hứng tay dưới với tay trên,
340. Lọc lừa từng tí, bon chen từng đồng!
Ở thì phất giấy đan lồng,
Nói thì mở miệng như rồng như tiên.
Gan thì quá ngỡ sắt đèn,
Miệng thơn thớt nghĩ rơi tiền bạc ra.
345. Mặt lành khéo nói thực thà,
Tưởng như xẻ cửa xẻ nhà cho nhau.
Ở nào mùi mẽ chi đâu,
Như tuồng cuội đất giấu đầu hở đuôi.
Nói lời lại nuốt lấy lời,
350. Một lưng bát xáo mười voi chưa đầy.
Cho nên mới phải lúc này:
Cửa nhà tàn phá phút rày sạch trơn.
Kẻ thì mắc phải vận nàn,
Cửa nhà một khắc lại tàn như tro.
355. Kẻ thì phải lính, phải phu,
Đem mình vào chốn quân gia trận tiền.
Kẻ thì mắc phải dịch ôn,
Kẻ thì thủy hỏa gian nan kia là!
Thấy người mà phải lo ta,
360. Sờ sờ trước mắt thực là thương thay,
Khuyên ai chớ bắt chước rày,
Ở lòng nhân nghĩa cho đầy mới khôn.
Lời cha dạy bảo nỉ non,
Trước sau ghi chép khuyên con nghe lời.
365. Nghe thì mới phải là người,
Chẳng nghe thì cũng là đời bỏ đi.

Dạy Con Gái Phải Có Đức Hạnh

Phận làm gái ở cùng cha mẹ,
Lòng phải chăm học khéo học khôn,
Một mai xuất giá hồi môn,
370. Phận bồ liễu giá trong như ngọc,
Khéo là khéo bánh trong, bánh lọc,
Lại ngoan nghề dệt vóc, may mền.
Khôn là khôn lẽ phải, đường tin,
Lại trọn đạo nâng khăn sửa túi.
375. Khôn chẳng tưởng mưu lừa chước dối,
Khéo chẳng khoe vẻ lịch, chiều trai.
Xưa nay hầu dễ mấy người,
Miệng khôn, tai khéo cho ai được nhờ.
Phận làm gái này lời giáo huấn,
380. Lắng tai nghe cổ truyện mới nên,
Hãy xem xưa những bậc dâu hiền,
Kiêm tứ đức: dung, công, ngôn, hạnh,
Công là đủ mùi xôi, thức bánh,
Nhiệm nhặt thay đường chỉ mũi kim.
385. Dung là nét mặt ngọc trang nghiêm,
Không tha thiết, không chiều lả tả.
Ngôn là dạy trình thưa vâng dạ,
Hạnh là đường ngay thảo kính tin.
Xưa nay mấy kẻ dâu hiền,
390. Dung, công, ngôn, hạnh là tiên phàm trần.
Phận con gái ở nhà thi lễ,
Lắng mà nghe kể chuyện tam cương:
Dẫu ái ân cùng chiếu cùng giường,
Đạo chồng sánh quân thân chi đạo,
395. Làm tôi con chỉ trung chỉ hiếu,
Làm dâu thì chỉ kính mới nên.
Chớ khoe khoang mình bạc mình tiền,
Đừng đỏng đảnh cậy khôn cậy khéo.
Bề thiếp phụ thuận tòng là điệu,
400. Cũng như bên thờ chúa thờ cha,
Muôn nghìn đừng thói kiêu ngoa,
Mắng ta không giận, yêu ta không nhờn.
Quyền mệnh phụ là mình làm chủ,
Trong đại hôn áo mũ thân nghênh,
405. Kính người vợ phép ở Lễ Kinh.
Chức phận phải chăm bề tần tảo,
Trong khuê khổn giữ gìn khăn áo,
Trên từ đường trăm việc trơn tru.
Từ cơm, canh, cá, thịt, mọi đồ,
410. Dẫu nhiều ít sửa cho trong sạch.
Bằng nhường ấy thần minh lai cách,
Câu “hữu trai” nên tiếng để đời,
Hoa thơm ai nỡ bỏ rơi,
Người khôn ai nỡ nặng lời đến ai.
415. Bề nội trợ việc trong xem xét,
Siêng năng thì trăm việc đều nên,
Chớ khoe khoang lắm thóc nhiều tiền,
Ngồi ăn mãi non mòn núi lở.
Việc nhà có kẻ ăn người ở,
420. Từ trong ngoài như bảo trước sau,
Đồ làm ăn, ngày để đâu đâu,
Ban tối phải thu về cho đủ.
Trống canh một chớ đà vội ngủ,
Siêng năng thì chăm chú việc ta.
425. Lũ nô tỳ trai gái năm ba,
Cơm chưa chín không nên khua xáo.
Đứa xay thóc, đứa thì giã gạo,
Đứa bếp thì chủ việc cơm.
Ăn đoạn rồi cho chúng nghỉ ngơi,
430. Đèn ta sẽ soi trong bếp lại.
Đừøng tin trẻ tôi đòi thơ dại,
Lời dạy răn: “giữ lửa chẳng chơi”.
Cho hay đại phú bởi trời,
Nhưng mà ở thế thì người hết chê.
435. Cầm then khóa giữ bề thu phát,
Chắt chiu mà dè dặt mới nên,
Coi sóc từ hạt gạo đồng tiền,
Đừng cậy có ăn càn, tiêu dở.
Bữa thường phải xem cho con ở,
440. Cũng đừng thừa, chớ thiếu làm chi.
Kẻ lân bang đến một đôi khi,
Đồ thết đãi xem cho tử tế.
Trong nhà phải bảo nhau có ý,
Đừng chửi mèo, mắng chó mà chi.
445. Trong anh em thiên tải nhất thì.
Sang vì vợ nhưng giàu vì bạn.
Chiều rộng hẹp tùy cơ ứng biến,
Đạo trì gia đãi khách khác màu,
Trần trần một mực nên đâu,
450. Phô loài bồ các biết đâu lẽ gì,
Phận là gái về làm dâu cả,
Việc ta chăm giữ chốn từ đường,
Lấy ngọn tần, lá tảo lễ thường,
Kìa hiếu dưỡng Thành Chu gia pháp.
455. Tôn tộc đến những khi kỵ lạp,
Xem bằng nhường quí khách, gia tân.
Có chữ rằng: “đạo trọng thân thân”,
Dễ mấy thủa đông như ngày giỗ.
Lúc lễ tất lẻn vào dọn cỗ,
460. Hãy pha trà tiếp đãi cho xong,
Bữa thường dù dưa muối mặc lòng,
Khi có họ xem cho tử tế,
Nước đã đoạn rượu liền nhân thể,
Giục tiểu hầu bưng cỗ tiếp ra.
465. Nhà dưới ta mời họ đàn bà,
Coi sóc hỏi họ hàng con cháu.
Không bỏ sót là tình yêu dấu,
Ai chẳng khen hiền đức phụ nhân,
Trọn đời đẹp mặt phu nhân,
470. Vì chưng chủ phụ thân thân biết điều.
Bề phụng dưỡng đôi bên cha mẹ,
Muôn một khi đá đổ bồ hôi,
Nghĩ xa lo đứng lo ngồi,
Chẳng còn tưởng đến tham công tiếc việc.
475. Đường điều hộ tiền không dám tiếc,
Mặc phu quân giữ việc thuốc thang,
Song ta nâng giấc giữ giàng,
Điều ăn uống phải hỏi han tùy thích.
Lòng người ước chim, gà, cá, thịt,
480. Của nên ăn dù đắt cũng mua.
Tùy người ưa thức ngọt chua,
Nhưng gia vị phải mong cho đủ mùi.
Xem quần áo nên thay kẻo bẩn,
Lòng yêu thân phải cẩn từng khi,
485. Tấm lòng trời đất chứng tri,
Dâu hiền có hiếu, tiếng ghi để đời.
Này con gái thuộc về khôn đạo,
Khôn đức nhu nết gái dịu dàng,
Một đôi khi chân bước ra đường,
490. Bề tôn trưởng thì lòng kính nhượng.
Dù chẳng phải là ta hơi hướng,
Nghĩa hương lân phải cất tiếng chào.
Bằng thấy người đầu bạc tuổi cao,
Có mang đội trình đòi nâng đỡ.
495. Thì miệng lưỡi chê bai ai nỡ,
Ở trên đời gái ở nết na,
Con hiền đẹp mặt mẹ cha,
Chồng hòa yêu chuộng, họ hòa kính chung
Dạy những kẻ đàn bà con gái,
500. Gặp phải chồng cờ bạc rượu chè,
Nay ông tơ, bà nguyệt trót xe,
Duyên phận ấy trót làm sao được.
Ở là phải tìm mưu giả chước,
Ngọt lời khuyên lâu cũng phải nghe,
505. Lúc ham mê cơm rượu say nhè,
Hãy cơm cháo trọn bề phụ đạo.
Chớ vợ nghiến chồng, thêm trân tráo,
Như chuyện chi lửa cháy dầu thêm,
Chẳng bằng khi chăn ấm chiếu êm,
510. Hãy năn nỉ đường khôn lẽ phải.
Bề ân ái vợ chồng là ngãi,
Dẫu giàu ăn, khó chịu cho cam.
Hay gì yến bắc, nhạn nam,
Khăng khăng một tiết cho cam sở nguyền.
515. Đạo vợ chồng là duyên kim cải,
Vốn trời sinh bể ái nguồn ân,
Kìa ai nổi trận phong vân,
Cũng vì gái nhiều phần nhầm lỗi.
Phận là gái ít đường giao hối ,
520. Thấy chồng yêu dễ lấy làm nhờn,
Miệng sai ngoa nói những giọng càn,
Bụng kiêu ngạo một ngày một sính,
Đạo cha mẹ đã không biết kính,
Bề anh em lại chẳng hay nhường,
525. Chua chát thay những tính cương cường.
Ai là đá ru mà chịu vậy !
Đường gia pháp không ăn lời dạy,
Việc giáo hình đến phải ra tay,
Hổ thân tiếng khắp đông tây,
530. Nông nỗi ấy hết đương khôn khéo.
Khuyên những các đào tơ liễu yếu,
Lấy làm gương chớ bắt chước chi,
Một niềm kính thuận vô vi,
Trước là khỏi nhục, sau thì nên danh,
535. Thương những kẻ đàn bà mất dạy,
Lại gặp chồng sợ vợ như ma,
Trách chi mà chẳng thói kiêu ngoa,
Những lừa cạnh, phô sòng, làm lệ.
Bề họ mạc không hay kính nể,
540. Nghĩ bon chen tiền bạc là khôn,
Đ ường gia tài khôn biết vén vun,
Nghĩ tha thướt áo quần là khéo,
Gà eo óc, phòng loan uốn éo,
Bầng mắt ra đã tỏ vầng ô,
545. Việc trong ngoài khí dụng các đồ,
Mặc con cái gặp sao hay vậy,
Bề nội ngoại những phô loài ấy.
Phúc đức kia còn nói làm chi,
Khen cho bà nguyệt khéo xe,
550. Anh này sánh với chị kia đương vừa.

Vợ Khuyên Chồng

Vợ chồng ta tơ hồng vấn vít,
Nhân duyên này bà nguyệt khéo xe.
Trình anh thân thiếp vụng về,
Yêu thì nên tốt chớ nề ngu si.
555. Quản bao lỗi nọ, lầm kia,
Chiều thanh vẻ quí dám bì được đâu.
Thiếp vâng lời dạy trước sau,
Nguyện xem then khóa, giữ hầu áo khăn.
Trước là thờ phụng tiền nhân,
560. Sớm thăm tối viếng ân cần đỡ anh.
Bốn phương chàng hãy kinh doanh,
Dùi mài kinh sử tập tành cung tên.
Công danh mong đợi ơn trên,
Còn trong trần lụy hãy xin dấu mầu.
565. Gửi trình dễ dám khuyên đâu,
Sắc phòng thương thận, rượu hầu thương tâm,
Thiếp xin chàng chớ đăm đăm,
Những nơi cờ bạc chớ ham làm gì.
Thế gian lắm kẻ điên mê,
570. Áo quần lam lũ người thì như ma.
Thiếp xin chàng lánh cho xa,
Một niềm trung hiếu để mà lập thân.
Bấy lâu những đợi long vân,
Đào thơ, liễu yếu gửi thân anh hùng.
575. Xưa nay gái đội ơn chồng,
Hiển vinh bõ lúc cơm sung, cháo dền.
Ơn trời công đã được đền,
Chàng nên quan cả, thiếp nên hầu bà!

Dạy Học Trò Ở Cho Phải Đạo

Nào là những kẻ học trò,
580. Nghe lời thầy dạy phải lo sửa mình.
Nghĩa cha sinh cùng công mẹ dưỡng,
Thời đêm ngày tư tưởng chớ khuây,
Hai công đức ấy nặng thay,
Xem bằng bể rộng, coi tày trời cao!
585. Trình vâng từ tốn ngọt ngào,
Đi về thưa thốt, ra vào thăm lênh.
Bánh quà, cá thịt, cơm canh,
Sớm trưa thay đổi để dành hẳn hoi.
Bữa thường dâng ngọt dâng bùi,
590. Nâng niu chào hỏi chẳng sai đâu là.
Nghĩ công khó nhọc nuôi ta,
Đến ngày cả lớn mong cho vuông tròn,
Kể từ lúc hãy còn thai dựng,
Đến những khi nuôi nấng giữ giàn.
595. Nặng nề chín tháng cưu mang,
Công sinh bằng vượt bể sang nước người.
Đoạn thôi lúc ấy vừa rồi,
Ấp ôm bú mớm chẳng rời trên tay.
Mong cho biết ngửa biết ngây,
600. Biết chuyện biết hóng chẳng khuây bao giờ,
Ngày trứng nước, thủa ngây thơ.
Bao giờ sài ghẻ bấy giờ lại lo.
Lo cho biết lẫy, biết bò,
Mong cho biết đứng, mong cho biết ngồi.
605. Đoạn rồi lại lo khi xảy đậu,
Công, dại, ngây, thơ ấu, u ơ.
Ba năm nhũ bộ còn thơ,
Kể công cha mẹ biết cơ ngần nào?
Chữ rằng “sinh ngã cù lao”,
610. Bể sâu khôn ví, trời cao khôn bì.
Nhưng mà gặp buổi bình thì,
Tiền trăm, bạc chục việc gì mà lo!
Hay là gặp cửa nhà giàu,
Của chìm của nổi dễ hầu lo chi!
615. Song ta vốn đã hàn vi,
Lại sinh ra gặp phải thì can qua.
Đòi khi kém đói thiết tha,
Bán buôn tần tảo cho qua lúc này.
Việc nhà việc cửa chuyên tay,
620. Khi đêm quên ngủ, khi ngày quên ăn.
Ngược xuôi gánh vác nhọc nhằn,
Chân le, chân vịt nào phần khoan thai.
Hình dung ăn mặc lôi thôi,
Áo thời xốc xếch, khố thời đuôi nheo.
625. Gian nan đòi đoạn ngặt nghèo,
Mà cho con học có chiều bao dong.
Thế gian mấy kẻ có lòng,
Có công trời hẳn dành công để chờ.
Bây giờ loạn lạc bơ vơ,
630. Cơ trời bĩ thái nắng mưa là thường.
Khuyên con học lấy văn chương,
Có bên nghĩa lý, có đường hiển vinh .
Loạn rồi lại có khi bình,
Khi bình ta hãy cá kình giương vây.
635. Say sưa kinh sử chớ khuây,
Sắt mài ắt hẳn có ngày nên kim.
Mãi Thần kia mới là gan,
Trèo non kiếm củi, đốt than dãi dầu.
Bể thánh sâu, cố gia công lội,
640. Rừng nho gai, thẳng lối xông pha,
Ba năm chợt đổi khôi khoa,
Sân rồng ruổi ngựa, đường hoa giong cờ.
Trần Bình nhà bạc cửa thưa,
Đói no chẳng quản, muối dưa chẳng nề.
645. Đọc sách là chí nam nhi,
Giúp Lưu trót đã lục kỳ nên công.
Lọng giương, ngựa cưỡi, xe giong,
Bể sâu cá nhảy vẫy vùng bõ khi.
Ấy là thuở trước nam nhi,
650. Bây giờ đèn sách sớm khuya thế nào?
Chữ rằng: ” loạn độc thư cao”,
Khi nên cũng thế, khác nào người xưa.
Nắng lâu cũng có khi mưa,
Trồng dưa thì lại được dưa nệ gì.
655. Mai ngày treo biển tên đề,
Khôi khoa lại được gặp kỳ thánh minh.
Lộc trời, tước nước hiển vinh,
Báo đền đôi đức dưỡng sinh bấy chầy.
Bõ khi nghèo khổ chua cay,
660. Bõ khi đèn sách, bõ ngày gian truân.
Bệ rồng gang tấc chín lần,
Trong triều mực thước, ngoài dân quyền hành.
Một triều là một thanh danh,
Bởi chưng có chí học hành thì nên.
665. Bao nhiêu là gái thuyền quyên,
Lưng ong má phấn cũng chen chân vào.
Đã má đỏ, lại má đào,
Thơm tho mùi xạ ngạt ngào mùi hương.
Đủ mùi những thức cao lương,
670. Sơn hào hải vị bữa thường đổi trao.
Lợn quay, xôi gấc, chè tàu,
Ai ai là chẳng đến hầu làm tôi.
Quạt lông, gối xếp, thảnh thơi,
Một lời dạy đến, trăm người dạ vâng.
675. Tiếng đàn, tiếng địch, tưng bừng,
Câu thơ, câu phú lại dâng chén quỳnh.
Trong ngoài quan khách linh đình,
Treo chông nội thất, truyền sênh công đường.
Phấn trần, tranh cánh, giá gương.
680. Khi buông màn vóc, khi giường chiếu hoa.
Người hầu, người hạ, nhởn nhơ,
Thắm chen vẻ tía, vàng pha màu hồng.
Nhà ngang dãy dọc trùng trùng,
Hầu non: con mới, tiểu đông: thằng tranh.
685. Trai khoe lịch, gái khoe thanh,
Ra vào hài hán, chung quanh dập dìu !
Giàu sang khác vẻ trăm chiều,
Vì ơn cha mẹ lắm điều vì ta.
Nghĩa thứ ba là trong thầy tớ,
690. Dạy mấy lời phải nhớ đinh ninh.
Nghĩa dưỡng sinh hiếu trung là thế
Đường công danh có chí thì nên.

Khuyên Học Trò Phải Chăm Học

Trước cửa Khổng cung tường chín chắn.
Bước lên đường vào cửa ung dung,
695. Trăm quan, tôn miếu, lạ lùng,
Học hành cho biết thủy chung tỏ tường.
Bẩm phi thường khác hơn mọi vật,
Ắt làm người thời chẳng hư sinh.
Phú cho tai mắt thông minh,
700. Tính tình gồm đủ kiếp sinh vẹn tuyền.
Bực thánh hiền ấy không dám ví,
Song làm người có chí thì nên,
Khai tâm từ thủa thiếu niên,
Hiếu kinh tiểu học trước liền cho thông.
705. Đọc cho đến Trung dung, Đại học,
Tứ thư rồi lại đọc ngũ Kinh,
Thi, Thư, Dịch, Lễ, đều tinh,
Xuân thu nghĩa cả cho minh nghiệp nhà.
Xem cho đến Bách gia, Chư tử,
710. Bảy mươi pho sử đều thông,
Sớm khuya ở chốn văn phòng,
Bút nghiên, giấy mực bạn cùng chân tay.
Bài kinh nghĩa cùng bài văn sách,
Tinh phú, thơ, mọi vẻ văn chương.
715. Một đèn, một sách, một giường,
Có công mài sắt có ngày nên kim.
Học trò giữ chính tâm làm trước,
Với tu, tề, bình, trị đều yên,
Cương thường giữ hiếu làm nên,
720. Từ đoan, ngũ giáo cho tuyền công sinh.
Bề đạo đức, gia đình phải giảng,
Phủ thiên quân quang đãng tinh vi.
Lý cho cách vật, trí tri,
Trong thì dưỡng đức, ngoài thì tu thân.
725. Nghiệp tứ dân nhất rằng chữ sĩ,
Nghề nông, thương, công cổ khôn sơ,
Đạo thầy thứ nhất là Nho,
Toán, y, lý, số dám so sánh bài.
Khắp triều đình trong ngoài lớn nhỏ,
730. Những là người áo mũ đai cân,
Đời nào cũng chuộng nghề văn,
Mưu mô dẹp loạn, kinh luân mở nền.
Pho kinh sử làu chuyên nghề học,
Chốn thư đường từng đọc hôm mai,
735. Quan sang chẳng có riêng ai,
Đạo trời nào phụ những người độc thư.
Kìa trước hết văn nho sĩ tử,
Dẫu khó khăn kinh sử càng chuyên,
Làm nên trọng chức cao quyền,
740. Trong ngoài ai chẳng ngợi khen bậc hiền.
Nhặt lấy cỏ bồ biên mà đọc,
Người Ôn Thư chí học mới cao.
Chàng Hoằng không sách biết sao.
Mượn kinh mà học viết vào mảnh tre.
745. Dùi đâm vế kẻo khi buồn ngủ,
Ngươi Tô Tần chí thú đọc kinh,
Tóc treo giường ấy, Tô sinh,
Để cho dễ thức học hành canh khuya.
Thủa dầu hết đèn hoe bóng tuyết,
750. Chàng Tôn Khang chịu rét đêm đông,
Nọ ngươi Trác Dận dầu không,
Túi bao đom đóm bạn cùng thư trai.
Vai gánh củi học thời luôn miệng,
Chu Mãi Thần nên tiếng danh nho,
755. Lý Sinh chẳng quản công phu,
Chăn trâu treo sách một pho trên sừng.
Ấy những người trước từng khó nhọc,
Sau làm nên tước lộc quan sang,
Làm trai chí khí hiên ngang,
760. Chớ rằng nguy khổ trễ tràng làm chi!
Oanh bé nhỏ tuổi thì lên tám,
Việc đọc thơ sớm đủ tinh thông,
Lão Tuyền tuổi cả gia công,
Hai mươi bảy tuổi dốc lòng nghề nho.
765. Đường Lưu Án tuổi vừa lên bảy,
Đỗ thần đồng tiếng dậy gần xa.
Ông Lương đã đến tuổi già,
Tám mươi hai tuổi đỗ khoa đại đình.
Đ ường vân trình dù sau dù trước,
770. Chữ công danh ai khác chi ai,
Hễ người có chí có tài,
Gió rung mặc gió khôn rời khôn lay.
Chẳng sợ kẻ lắm thầy nhiều tớ,
Thấy ta nghèo ra sự rẻ khinh,
775. Thư trung lắm kẻ hiển vinh,
Dập dìu hầu hạ, linh đình ngựa xe.
Chẳng sợ kẻ lắm tiền, nhiều lúa,
Nghĩ mình rằng có của thì hơn,
Thư trung Kim ngọc vô vàn,
780. Đầy khè chung đỉnh, chứa chan bạc vàng.
Chẳng sợ lắm kẻ thê nhiều thiếp,
Đã hẳn rằng tốt đẹp hơn ai ?
Thư trung có gái tuyệt vời,
Những người mặt ngọc là người vẻ vang.
785. Chẳng sợ kẻ tòa ngang dãy dọc,
Khinh nhau rằng hàn ốc thê lương.
Thư trung tuấn vũ điêu tường.
Lầu hồng gác phượng cột giường liền mây
Ai có chí đêm ngày luyện tập,
790. Theo người xưa cho kịp mới nên.
Học cho hy thánh hy hiền,
Việc gì thông biết chẳng phiền lụy ai.
Chốn lâm tẩu, hoài tài bảo đức,
Khắp bốn phương đồn nức thời danh,
795. Chiếu nêu cao giá ngọc lành,
Xe loan có thủa cung doanh có ngày.

* HẾT *