Đức Phật Và Nhân Sinh

Chia sẻ giáo lý đạo Phật

Đức Phật Và Nhân Sinh

Chia sẻ giáo lý đạo Phật

Trang này tập hợp những bài viết của các tác giả, chúng tôi sưu tầm trên mạng.

Sưu tầm 1

Các bạn biết không. Phật là Bậc Thầy cao quý Ai ai cũng tôn sùng Tại sao Phật Độ Ta mà không độ nàng? Tôi kể cho các bạn nghe một câu chuyện: Trong tiệm cắt tóc có một anh thợ đang cắt tóc cho một chàng trai. Bổng nhiên anh thợ cắt tóc thở dài: Người người đều ca ngợi lòng từ của Phật, luôn nói Phật đến với thế giới này là vì yêu thương chúng sanh, thấy chúng sanh đau khổ nên thị hiện trên cõi đời để cứu muôn loài. Thế thì tại sao còn có những người vào tù ra tội, kẻ ko có nhà để về, lang thang đầu đường xó chợ, kẻ thị trộm cướp, xin ăn, … Rất nhiều người còn đang khổ ngoài kia tại sao Phật không cứu. Anh khách là một Phật tử chân chính. Nghe xong lời than thở và ngồi yên ko nói gì. Khi cắt tóc xong anh trả tiền và đi ra cửa để về, vừa bước ra khỏi cửa, anh nói: trên đời này làm gì có thợ cắt tóc. Anh thợ cắt tóc bực mình lên tiếng: thế tôi là ai? Ai vừa mới cắt tóc cho anh? Anh khách khăng khăng nói: nếu có thợ cắt tóc thì sao ở bên kia có người đầu tóc um sùm. Nhìn dơ bẩn thế kia? Anh cắt tóc cười đáp: nếu anh ta vào đây hoặc đến nơi nào có thợ cắt tóc sẽ có người cắt tóc cho anh ta, do anh ta ko chịu vào tiệm cắt tóc nên đầu mới um sùm như vậy. Anh hành khách mỉm cười : đúng vậy. Đức Phật có lòng từ bi, muốn cứu độ hết thảy chúng sanh, nhưng vì chúng sanh quá u mê, luôn tìm mọi cách chống đối lại Ngài, luôn bỏ ngoài tai những lời Ngài dạy thì làm sao Phật cứu độ được. Cũng như anh đầu tóc rối um ngoài kia. Ko chịu vào tìm thợ cắt tóc, cứ thích để tóc dài đen um xùm như thế thì thợ cắt tóc cũng đâu làm gì được anh ta. Nói xong hành khách mỉm cười đi ra về. Còn anh thợ cắt tóc đã ngộ được điều gì đó rất cao quý. Nam Mô Bụt. Siêu tầm

Sưu tầm 2

HT.Thích Trí Tịnh và pháp tu Tịnh Độ

Đại lão HT.Thích Trí Tịnh là bậc Tùng lâm thạch trụ và là một trong những đại dịch giả của Phật giáo Việt Nam. Mặc dù tinh thông cả Thiền lẫn Giáo, song Hòa thượng một đời chuyên tâm hành trì pháp môn Tịnh độ và luôn luôn khuyến tấn Tăng Ni, Phật tử ăn chay, giữ giới, niệm Phật…

 Lắng lòng đọc lại khai thị của Cố Đại lão Hòa thượng Thích Trí Tịnh về niệm Phật

Cố đại lão HT. Thích Trí Tịnh, thế danh là Nguyễn Văn Bình, pháp danh Thiện Chánh, sinh năm 1917 tại làng Mỹ Luông, quận Cái Tàu Thượng, tỉnh Sa Đéc (nay là huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp).

Người xuất gia năm 1937 với HT. Thích Thiện Quang tại chùa Vạn Linh (An Giang) được ban Pháp tự Trí Tịnh, pháp hiệu Hân Tịnh, húy Nhựt Bình, thuộc đời thứ 41 dòng Thiền Lam Tế Gia Phổ. Năm 1946, Người thọ cụ túc giới tại chùa Long An – Sá Đéc.

Năm 1981, tại Hội nghị Đại biểu thống nhất Phật giáo toàn quốc, HT. Thích Trí Tịnh được suy tôn cương vị Thành viên Hội đồng Chứng minh, suy cử vào cương vị Phó Chủ tịch thường trực Hội đồng Trị sự (HĐTS) kiêm Trưởng ban Tăng sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam (TW GHPGVN).

Từ năm 1984, HT. Thích Trí Tịnh đảm nhiệm cương vị Chủ tịch HĐTS, Trưởng ban Tăng sự TW GHPGVN.

Năm 1992, HT. Thích Trí Tịnh kiêm thêm Đệ nhất Phó Pháp Chủ kiêm Giám luật. Hòa Thượng suốt 1 đời không ngừng học hỏi, một mình vượt qua bao chặng đường để đi tìm nguồn chân lý Phật đà, đóng góp nhiều giá trị lớn lao cho Đạo và Đời với những gì Người đã được tiếp nhận.

Có thể nói HT. Thích Trí Tịnh là vị Tổ Sư khởi xướng phong trào chấn hưng Tịnh môn trong mái nhà Phật Giáo Việt Nam cận đại. Bên cạnh đó, hàng Phật tử thấm nhuần hoặc biết qua kinh điển Đại thừa là nhờ công trình dịch thuật của HT. Thích Trí Tịnh như: Diệu pháp liên hoa kinh, kinh Địa Tạng, kinh Tam bảo, kinh Đại Bát Niết Bàn, kinh Đại Bát Nhã, kinh Hoa Nghiêm, kinh Đại Bảo Tích và rất nhiều kinh Hán tạng giá trị cho sự hành trì tu tập của đại chúng.

Đại lão HT.Thích Trí Tịnh là bậc Tùng lâm thạch trụ và là một trong những đại dịch giả của Phật giáo Việt Nam.

HT. Thích Trí Tịnh sống giản dị, giới hạnh tinh nghiêm, ít ngủ nghỉ, tụ tập hành trì không bỏ sót thời gian, không nói chuyện ngoài sự đàm thuyết về Phật pháp, khuyến tấn bao người tụ tập bằng cách sống và hành động mẫu mực của mình. Người là một bậc nhân tu sáng ngời đạo hạnh trong lòng Tăng Ni Phật tử Việt Nam.

Đại lão HT. Thích Trí Tịnh, tân viên tịch lúc 9 giờ 15 phút, ngày 28-3-2014 (nhằm ngày 28-2-Giáp Ngọ), trụ thế 98 năm, 69 hạ lạp…

HT. Thích Trí Tịnh

HT. Thích Trí Tịnh là một bậc nhân tu sáng ngời đạo hạnh trong lòng Tăng Ni Phật tử Việt Nam.

HT. Thích Trí Tịnh nói “Pháp môn trì danh niệm Phật đơn giản lắm”, “Trước hết, luôn luôn phải có lòng tin. Tin ở nơi lời giới thiệu của Đức Phật Thích Ca về Cực Lạc thế giới của Đức Phật Di Đà là chơn thật; tin vào y báo, chánh báo của cảnh giới ấy, vì đó là chỗ mà tất cả chúng sanh và các bậc Thánh đều phải nên về. Do là y báo, chánh báo của cảnh giới Cực Lạc có thể đưa mình đến nơi bậc thánh, thành Phật chứ không ngưng trệ hay do duyên gì mà thối lui. Tiếp theo là tin nơi Pháp mà Phật Thích Ca đã dạy, phải như thế nào thì mới có thể về cảnh giới Cực Lạc”.

HT. Thích Trí Tịnh sống giản dị, giới hạnh tinh nghiêm, ít ngủ nghỉ, tụ tập hành trì không bỏ sót thời gian, không nói chuyện ngoài sự đàm thuyết về Phật pháp, khuyến tấn bao người tụ tập bằng cách sống và hành động mẫu mực của mình.

HT. Thích Trí Tịnh sống giản dị, giới hạnh tinh nghiêm, ít ngủ nghỉ, tụ tập hành trì không bỏ sót thời gian, không nói chuyện ngoài sự đàm thuyết về Phật pháp, khuyến tấn bao người tụ tập bằng cách sống và hành động mẫu mực của mình.

Theo HT. Thích Trí Tịnh: “Có nhiều cách để vãng sinh Cưc Lạc, song cách trì danh là đơn giản nhất. Bởi theo danh tự mà niệm thì dễ, còn quán tưởng thì trí lực của người rất khó đến. Muốn ở nơi sự quán tưởng đúng theo kinh nói thì các bậc hiền thánh mới có thể thực hiện được. Trong khi trì danh thì dẫu kẻ phàm phu, tục tử vẫn có thể niệm, cứ đúng theo Nam mô A Đi Đà Phật mà hành trì”.“Quý huynh đệ thấy, nếu quán về 32 tướng tốt của Phật, ngay chỉ tướng lông trắng giữa chặn mày của Phật A Di Đà thôi cũng đã lớn bằng năm hòn núi Tu Di, như vậy thì làm sao nghĩ tới? Ở đây, ánh sáng lại tỏa ra khắp mười phương. Còn cặp mắt của ngài thì bằng bốn đại hải – đại hải đó không phải như ở biển ta, biển ở ta so ra thì chỉ là một cái cù lao – tưởng tượng sao nổi?”

“Cái tướng lông trắng đó của bất kỳ vị Phật nào, nếu kéo thẳng ra thì cũng đều đụng tới gót. Mà theo kinh, bề cao của thân Phật Di Đà là 60 muôn ức Na do tha số các sông Hằng (theo luận Câu xá thì một Na do tha bằng khoảng 100.000 tỷ – GN) – một hột cát được tính là một do tuần (khoảng 15-20 km), cộng lại là ra chiều cao thân Phật. Thử nghĩ, một sông Hằng có bao nhiêu hột cát, bao nhiêu do tuần? Mà thân ngài cao đến 60 muôn ức na do tha số cát sông Hằng! Do đó, tướng lông trắng đó cũng dài tương đương như vậy, xoắn tròn lại to bằng năm hòn núi Tu Di”.

Mặc dù tinh thông cả Thiền lẫn Giáo, song Hòa thượng một đời chuyên tâm hành trì pháp môn Tịnh độ và luôn luôn khuyến tấn Tăng Ni, Phật tử ăn chay, giữ giới, niệm Phật.

Mặc dù tinh thông cả Thiền lẫn Giáo, song Hòa thượng một đời chuyên tâm hành trì pháp môn Tịnh độ và luôn luôn khuyến tấn Tăng Ni, Phật tử ăn chay, giữ giới, niệm Phật.

“Đó không phải là cách nói tượng trưng đâu, mà Phật Thích Ca nói đúng thiệt như vậy. Nếu chỉ quán tưởng thân ngài cao như tượng mình thờ thì không chính xác. Còn nếu quán thật tướng chân như lại càng khó hơn nữa. Dù cũng có người làm được, nhưng chỉ là những bậc hiền thánh hiện thân. Do vậy, trì danh được xem là thấp nhất và dễ nhất. Mình đang đi bộ hay đi trên  xe  niệm Phật cũng được. Mình đang đứng ngắm cảnh cũng niệm được. Mình đang ngồi làm việc cũng niệm được và khi mệt mỏi quá nằm niệm cũng được. Chỉ trừ lúc nói chuyện là không niệm được thôi!”

“Trì danh nói là thấp song hành trì không dễ. Phải tin thực sâu, nguyện thực thiết và công hạnh phải chuyên cần thì mới hiệu nghiệm, nếu không thì cảnh khác chen vô phá hết. Khi niệm thì tâm và tiếng phải hiệp khắn nhau. Nghĩa là tâm phải duyên theo tiếng, tiếng phải ở trong tâm, đừng để nó xao lãng theo một tiếng gì khác, hễ nó rời ra thì phải kéo nó lại. Muốn được vậy, tiếng niệm phải cho rõ ràng, rành rẽ. Niệm như vậy phải chuyên cần, phải nhiều thời gian, phải đều đặn, phải tinh tấn lắm mới đắc lực. Khi niệm đã đắc lực thì tự nhiên trong tâm mình nổi lên tiếng niệm Phật mà mình không cần đề khởi, không cần nghĩ đến nó vẫn tự niệm. Ban đầu thì lúc được lúc mất, được thì ít mà mất thì nhiều. Cố gắng thêm thì được nhiều mất ít, cho đến khi không còn gián đoạn nữa thì gọi là niệm lực tương tục. Và như vậy mới đúng nghĩa “chấp trì danh hiệu”. Đó mới là nhơn của niệm Phật tam muội. Được vậy thì sự vãng sanh mới bảo đảm”.

 “Tôi nói với mấy huynh đệ về chữ “chấp trì danh hiệu”. Chấp nghĩa là cầm, còn trì là giữ lại. Giống như tôi nắm quyển sách không buông ra vậy, hễ bỏ ra là không trì. Khi mình xưng danh hiệu ‘Nam Mô A Di Đà Phật’, làm sao trong tâm mình chỉ có ‘Nam Mô A Di Đà Phật’ mà thôi. Đừng có cái gì khác, đừng cho một niệm gì xen vào hết. Trong lúc niệm Phật mà còn niệm những thứ khac nữa thì không phải niệm Phật. Nếu chấp trì được danh hiệu như Phật Thích Ca nói thì nhất định vãng sanh. Làm không đúng thì không có kết quả. Lời Phật nói không khi nào sai cả, chỉ tại mình hiểu chưa đúng, mà khi hiểu đúng thì cũng không hẳn đã làm đúng”.

“Cũng có nhiều người đến than thở với tôi là muốn giữ cái tâm lại, nhiếp tâm để chấp trì danh Phật mà làm hoài nó vẫn cứ chạy. Vì cái chạy đó nó quen lâu năm rồi. Không phải lâu năm trong đời này, mà nó đã lâu năm trong nhiều đời trước nữa. Cho nên, mình phải cột, phải nắm lại, rồi lần lần ‘cột nắm’ cũng dần quen. Khi đứng lại thì nó cũng quen đứng luôn. Vậy nên, phải thật chịu khó để đạt nhất tâm bất loạn, tức niệm Phật tam muội. Trong Quán kinh nói, lúc Phật Di Đà hiện tiền thì các Phật khác cũng hiện tiền. Hiện tiền là hiện ra trước mắt chứ không phải chiêm bao”.

HT. Thích Trí Tịnh nói thêm: “Khi dịch các kinh điển Đại thừa khác, tôi thấy trong các kinh đó đều có nói đến cảnh giới Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà. Như trong kinh Hoa Nghiêm, ngay cả các vị Đại Bồ tát nhập Bất khả tư nghì Giải thoát cảnh giới, khi các vị ngồi kề bên Phật còn khuyên với nhau xả bỏ thân này để về Cực Lạc, bởi duyên Cực Lạc khó có nước nào bằng. Vậy nên, chúng ta hãy chuyên tâm niệm Phật”.

https://tv.phatgiao.org.vn – Minh Chính (TH)

Sưu tầm 3

Kinh Tăng Nhất A-Hàm

Việt dịch: Hòa thượng Thích Thanh Từ

Hiệu đính: Hòa thượng Thích Thiện Siêu

Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam

PL 2541 – TL 1997

XXI. Phẩm Tam Bảo

1. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

– Có ba đức tự quy y. Thế nào là ba? Nghĩa là quy y Phật, đức thứ nhất; quy y Pháp, đức thứ hai; quy y Tăng, đức thứ ba.

Thế nào gọi là đức tự quy y Phật? Có các chúng sanh hai chân, bốn chân, chúng nhiều chân; có sắc, không sắc, có tưởng không tưởng đến trên Ni Duy Tiên Thiên (Trời Sắc cứu cánh); trong đây, Như Lai là bậc tối tôn, tối thượng, không ai bì kịp. Do bò được sữa, do sữa được bơ, do bơ được tô, do tô được đề hồ; nhưng ở đây, đề hồ là thứ tối tôn, tối thượng, không gì sánh kịp. Ðây cũng như thế, có các chúng sanh hai chân, bốn chân, chúng nhiều chân, có sắc, không sắc, có tưởng không tưởng đến trên Ni Duy Tiên Thiên (Trời Sắc cứu cánh); ở trong đó, Như Lai là bậc tối tôn, tối thượng, không ai sánh kịp. Có các chúng sanh thừa sự Phật, đó là đức phụng sự đệ nhất. Ðã được đức đệ nhất, liền hưởng phước trên Trời, hay trong loài Người. Ðây gọi là đức đệ nhất.

Thế nào gọi là đức tự quy ý Pháp? Nghĩa là các pháp hữu lậu, vô lậu, hữu vi, vô vi, vô dục, vô nhiễm, diệt tận Niết-bàn; nhưng pháp Niết-bàn ở trong các pháp là tối tôn, tối thượng, không gì có thể bằng. Do bò được sữa, do sữa được bơ, do bơ được tô, do tô được đề hồ; nhưng ở trong đó, đề hồ lại là tối tôn, tối thượng, không gì sánh kịp. Ðây cũng như thế, nghĩa là các pháp hữu lậu, vô lậu, hữu vi, vô vi, vô dục, vô nhiễm, diệt tận, Niết-bàn; nhưng trong đó, pháp Niết-bàn là tối tôn, tối thượng, không gì sánh kịp. Có các chúng sanh thừa sự pháp, đó là đức thừa sự đệ nhất. Ðã được đức đệ nhất, liền được hưởng phước trên Trời, trong loài Người. Ðây gọi là đức đệ nhất.

Thế nào gọi là đực tự quy y Thánh chúng? Thánh chúng nghĩa là trong các loại chúng sanh hữu tình nhóm lại thành nhóm lớn, chúng lớn, thì ở trong chúng này, chúng Tăng của Như Lai là tối tôn, tối thượng, không gì sánh kịp. Do bò được sữa, do sữa được bơ, do bơ được tô, do tô được đề hồ; nhưng trong đó đề hồ lại là tối tôn, tối thượng, không gì sánh kịp. Ðây cũng như thế, Thánh chúng nghĩa là chúng Tăng của Như Lai trong loài hữu tình nhóm họp lại thành chúng lớn, là tối tôn, tối thượng, không gì sánh kịp. Ðó là đức thừa sự đệ nhất. Ðã được đức đệ nhất, liền được hưởng phước trên Trời, trong loài Người. Ðây gọi là đức đệ nhất.

Bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ:

Ðệ nhất thừa sự Phật,

Tối tôn không ai hơn,

Kế lại thừa sự Pháp,

Vô dục không chỗ vương,

Kính thờ chúng Hiền Thánh,

Là ruộng phước tốt nhất,

Người ấy trí đệ nhất,

Hưởng phước trước hơn hết,

Nếu ở trong Trời, Người,

Ở chúng là chánh đạo

Cũng đưọc tòa tối diệu

Tự nhiên uống cam lộ,

Thân mặc áo bảy báu.

Ðược mọi người cung kính,

Giới đầy đủ hoàn toàn,

Các căn không sơ sót.

Cũng được biển trí tuệ,

Dần đến cõi Niết-bàn.

Người có tam quy này,

Hướng đến đạo chẳng khó.

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

2. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

– Có ba phước nghiệp này. Thế nào là ba? Bố thí là phước nghiệp, bình đẳng là phước nghiệp, tư duy là phước nghiệp.

Thế nào gọi bố thí là phước nghiệp? Nếu có một người mở lòng bố thí cho Sa-môn, Bà-la-môn, người hết sức bần cùng, người cô độc, người không nơi nương tựa, cần ăn cho ăn, cần nước cho nước, y phục, thức ăn, giường nằm, thuốc men trị bệnh, hương hoa, chỗ ở, tùy theo sự thuận tiện của thân, không có yêu tiếc. Ðây gọi là phước nghiệp bố thí.

Thế nào gọi bình đẳng là phước nghiệp? Nếu có một người không giết hại, không trộm cắp, hằng biết hổ thẹn, không dấy tư tưởng ác, cũng không trộm cắp, thích bố thí cho người, không tâm tham lẫn, nói năng hòa nhã, không tổn thương tâm người, cũng không dâm dục với vợ hay chồng người khác, tự tu Phạm hạnh, tự đủ với sắc vợ hay chồng mình, cũng không vọng ngữ, hằng nghĩ chí thành, không lời hư dối. Người ấy được người đời kính nể, không có thêm bớt, cũng không uống rượu, hằng biết tránh loạn động, lại đem tâm từ rải khắp một phương, hai phương, ba phương, bốn phương cũng thế; tám hướng, trên dưới, đầy khắp trong đó không hạn, không lượng, không thể giới hạn, không thể tính kể; dùng tâm từ này che khắp tất cả khiến được an ổn; lại đem tâm bi, hỉ, xả (hộ) trải khắp một phương, hai phương, ba phương, bốn phương cũng vậy, tám hướng, trên dưới, đều tràn đầy trong đó không hạn, không lượng, chẳng thể tính kể; dùng tâm bi, hỉ, xả, rải đầy trong đó. Ðó gọi là bình đẳng là phước nghiệp.

Thế nào gọi tư duy là phước nghiệp? Ở đây, Tỳ-kheo, tu hành niệm giác ý, ý vô dục, ý vô quán, ý diệt tận, ý xuất yếu, tu pháp giác ý, tu niệm giác ý, tu ý giác ý, tu định giác ý, tu xả (hộ) giác ý, ý vô dục, ý vô quán, ý diệt tận, ý xuất yếu. Ðó gọi là tư duy là phước nghiệp. Như thế, Tỳ-kheo, có ba phước nghiệp này.

Bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ:

Bố thí và bình đẳng,

Từ tâm, xả, tư duy,

Có ba xứ sở này,

Chỗ người trí thân cận,

Trong đây hưởng báo này,

Trên trời cũng lại thế.

Do có ba chỗ này,

Sanh Thiên ắt chẳng nghi.

Thế nên, các Tỳ-kheo, hãy tìm phương tiện đến ba chỗ này. Như thế, này các Tỳ-kheo, hãy học điều này!

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

3. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

– Có ba nhân duyên khiến thức đi đến thọ thai? Thế nào là ba? Ở đây, Tỳ-kheo! Mẹ có dục ý, cha mẹ ở chung một nơi, cùng nghỉ ngơi chung, nhưng ngoại thức lại chưa ứng hướng đến liền chẳng thành thai. Nếu thức muốn chạy đến mà cha mẹ không giao hợp thì chẳng thành thai. Nếu người mẹ lại không dục, cha mẹ cộng hợp một nơi, bấy giờ ý dục của cha mẹ, mẹ không ân cần lắm thì không thành thai. Nếu cha mẹ hợp lại một nơi, mẹ lòng dục mạnh mẽ mà cha chẳng ân cần lắm thì không thành thai. Nếu cha mẹ lại ở một nơi, cha có bịnh phong, mẹ có bịnh lạnh thì không thành thai. Nếu cha mẹ lại ở một nơi, mẹ có bịnh phong, cha có bịnh lạnh thì không thành thai. Nếu lại có lúc cha mẹ hợp một chỗ, thân cha thủy khí hơi nhiều, mẹ không có bệnh này thì không thành thai. Nếu lại có lúc, cha mẹ hợp một nơi, tướng cha có con, tướng mẹ không con thì không thành thai. Nếu có lúc, cha mẹ hợp một nơi, tướng mẹ có con, tướng cha không con thì không thành thai. Nếu lại có lúc tướng cả cha lẫn mẹ không con, thì không thành thai. Nếu lại có lúc thức thần đến thai mà cha đi vắng thì không thành thai. Nếu lại có lúc cha mẹ nên ở một nơi, mà mẹ đi xa thì không thành thai. Nếu lại có lúc cha mẹ đáng lý ở một nơi, nhưng thân cha gặp bịnh nặng lúc thức thần hướng đến thì không thành thai. Nếu lại có lúc cha mẹ đáng nên hợp một nơi, thức thần hướng đến như thân mẹ bị bịnh nặng thì không thành thai. Nếu lại có lúc cha mẹ đáng nên hợp một nơi, thức thần chạy đến, những thân cả cha và mẹ đều bịnh tật thì không thành thai.

Lại nữa, này Tỳ-kheo, nếu cha mẹ hợp một nơi, cha mẹ không bịnh, thức thần hướng đến, mà tướng cha mẹ đều có con, thì đây thành thai. Ðó là ba nhân duyên này mà đến thọ thai. Thế nên, Tỳ-kheo, hãy tìm phương tiện đoạn dứt ba nhân duyên. Như vậy, này các Tỳ-kheo, hãy học điều này!

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

4. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

– Nếu cho chúng sanh muốn khởi tâm từ, có lòng tin thuần thành, vâng nhận phụng sự cha mẹ, anh em, dòng họ, nhà cửa, bằng hữu, tri thức nên đặt ở ba nơi khiến không di động. Thế nào là ba? Nên phát tâm hoan hỉ đối với Như Lai, tâm không di động, bậc Như Lai Chí Chân Ðẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thuợng Sĩ, Ðạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư hiệu là Phật, Thế Tôn.

Lại nên phát ý ở trong Chánh pháp, pháp của Như Lai khéo thuyết, vô ngại, rất là vi diệu, do đây mà thành quả vị. Như thế người trí nên học để biết, cũng nên phát ý với Thánh chúng này, Thánh chúng của Như Lai thảy đều hòa hợp, không có lẫn lộn, pháp thành tựu, giới thành tựu, tam muội thành tựu, trí tuệ thành tựu, giải thoát thành tựu, giải thoát kiến tuệ thành tựu. Thánh chúng nghĩa là bốn đôi, tám bậc, mười hai Hiền Thánh. Ðây là Thánh chúng của Như Lai, đáng kính, đáng quý. Ðây là phước điền vô thượng của thế gian. Có các Tỳ-kheo học ba điều này thì thành tựu quả báo lớn. Như thế, này các Tỳ-kheo, hãy học điều này!

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

5. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Tỳ-kheo Cù-ba-ly đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy rồi ngồi một bên.

Lúc ấy Tỳ-kheo kia bạch Thế Tôn:

– Tỳ-kheo Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên việc làm rất ác, tạo các hạnh ác.

Thế Tôn bảo:

– Chớ nói thế! Thầy hãy phát tâm hoan hỉ đối với Như Lai. Tỳ-kheo Mục-kiền-liên và Xá-lợi-phất việc làm thuần thiện, không có các điều ác.

Tỳ-kheo Cù-ba-ly hai ba phen bạch Thế Tôn:

– Như Lai nói thật không có hư vọng, nhưng Tỳ-kheo Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên việc làm rất ác, không có gốc lành.

Thế Tôn bảo:

– Thầy là người ngu! Chẳng tin lời Như Lai, mới bảo Tỳ-kheo Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên việc làm rất ác. Nay Thầy tạo hạnh ác này, sẽ chịu quả báo không lâu.

Bấy giờ Tỳ-kheo kia ở ngay trên chỗ ngồi, thân mọc mụt nhọt độc, lớn bằng hột cải, dần bằng hột đậu, dần dần như trái a-ma-lặc, gần bằng bồ đào, lại bằng nắm tay, máu mủ chảy tràn, thân hoại mạng chung, sanh trong địa ngục hoa sen.

Bấy giờ Tôn giả Ðại Mục-kiền-liên nghe Cù-ba-ly mạng chung, liền đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy ngồi một bên. Chốc lát, Tôn giả ngồi lùi ra bạch Phật:

– Tỳ-kheo Cù-ba-ly bị sanh ở đâu?

Thế Tôn bảo:

– Người đó mạng chung sanh trong địa ngục hoa sen.

Bấy giờ Tôn giả Mục-kiền-liên bạch Thế Tôn:

– Nay con muốn đến địa ngục ấy giáo hóa Thầy ấy.

Thế Tôn bảo:

– Mục-kiền-liên, Thầy chẳng cần đến đó.

Mục-kiền-liên lại bạch Thế Tôn lần nữa:

– Con muốn đến địa ngục đó giáo hóa Thầy ấy.

Bấy giờ Thế Tôn cũng im lặng không đáp. Tôn giả Mục-kiền-liên như trong khoảng lực sĩ co duỗi cánh tay, từ Xá-vệ biến mất, liền đến trong đại địa ngục hoa sen. Ngay lúc đó, Tỳ-kheo Cù-ba-ly thân thể đang bị lửa đốt, lại có trăm con trâu cày trên lưỡi.

Bấy giờ Tôn giả Mục-kiền-liên ngồi kiết-già ở trong hư không, búng móng tay báo cho Tỳ-kheo kia. Tỳ-kheo ấy ngước lên hỏi:

– Thầy là ai?

Tôn giả Mục-kiền-liên đáp:

– Cù-ba-ly, Ta là đệ tử Phật Thích-ca Văn, tên Mục-kiền-liên, họ Câu-lợi-đà.

Lúc ấy, Tỳ-kheo thấy Mục-kiền-liên rồi liền thốt lời ác:

– Nay ta đã đọa xuống cõi ác này, vẫn không thoát khỏi thấy Thầy ở trước nữa sao?

Nói lời này xong, lập tức có ngàn con trâu cày trên lưỡi. Tôn giả Mục-kiền-liên thấy rồi tăng thêm buồn rầu, sanh lòng hối hận, liền biến mất, trở về nước Xá-vệ, đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy rồi đứng một bên. Tôn giả đem nhân duyên này bạch đủ với Thế Tôn.

Thế Tôn bảo:

– Trước Ta đã nói với Thầy chẳng cần đến đó gặp người ác ấy. Thế Tôn bèn nói kệ:

Phàm người sanh ra,

Búa ở trong miệng,

Sở dĩ chém thân,

Do lời ác này.

Kia dứt ta dứt,

Cả hai đều thiện,

Ðã tạo hạnh ác,

Ðó đọa cõi ác.

Ðây là ác nhất,

Hữu tận, vô tận,

Ác với Như Lai,

Người này nặng nhất.

Một muôn ba ngàn,

Sáu (mươi) mốt ngục tro.

Báng Thánh đọa đó,

Do thân miệng tạo.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

– Nên học ba pháp để thành tựu hạnh của mình. Thế nào là ba? Thân làm lành, miệng nói lành, ý nghĩ lành. Như thế, này các Tỳ-kheo, hãy học điều này!

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

6. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

– Nếu có Tỳ-kheo thành tựu ba pháp, ở pháp hiện tại khéo được khoái lạc, dũng mãnh tinh tấn, dứt sạch được hữu lậu. Thế nào là ba? Ở đây, Tỳ-kheo các căn tịch tĩnh, ăn uống biết tiết độ, chẳng bỏ kinh hành.

Thế nào là Tỳ-kheo các căn tịch tĩnh? Ở đây, Tỳ-kheo nếu mắt thấy sắc, chẳng khởi tưởng dính mắc, không có nghĩ nhớ (thức niệm) ở nhãn căn được thanh tịnh, nhân kia cầu giải thoát, hằng thủ hộ nhãn căn. Nếu tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân biết xúc chạm, ý biết pháp, chẳng khởi tưởng dính mắc, không có nghĩ nhớ (thức niệm) ở ý căn được thanh tịnh, nhân đó cầu giải thoát, hằng hộ ý căn. Như thế là Tỳ-kheo các căn tịch tĩnh.

Thế nào là Tỳ-kheo ăn uống biết điều độ? Ở đây, Tỳ-kheo suy xét thức ăn uống từ chỗ nào đến, chẳng cầu mập trắng, chỉ muốn thân hình được toàn vẹn tứ đại: ‘Nay ta nên trừ thọ cũ, chẳng cho cái mới sanh, khiến thân có sức được tu hành theo đạo, để Phạm hạnh chẳng dứt tuyệt’. Ví như thân nam, nữ sanh mụt nhọt độc, dùng cao mỡ bôi nhọt. Sở dĩ bôi lên mụt nhọt là muốn cho nó lành. Ðây cũng thế! Các Tỳ-kheo ăn uống biết tiết độ. Ở đây Tỳ-kheo suy nghĩ thức ăn từ đâu tới, chẳng cầu mập trắng, chỉ muốn thân hình được vẹn toàn tứ đại: ‘Nay ta nên trừ thọ cũ, khiến cái mới chẳng sanh, khiến thân có sức được tu hành đạo, khiến Phạm hạnh chẳng dứt.’ Ví như xe chở nặng, sở dĩ bôi mỡ vào trục bánh, là muốn xe chở nặng mà đi đến nơi được. Tỳ-kheo cũng như thế, ăn uống biết tiết độ, suy nghĩ từ đâu đến, chẳng cầu mập trắng, chỉ mong thân hình được vẹn toàn tứ đại: ‘Nay ta nên trừ thọ cũ, khiến cái mới chẳng sanh, khiến thân có sức được tu hành đạo, khiến Phạm hạnh chẳng dứt’. Như thế là Tỳ-kheo ăn uống có tiết độ.

Thế nào là Tỳ-kheo không bỏ mất việc kinh hành? Ở đây, Tỳ-kheo đầu đêm, cuối đêm hằng nhớ kinh hành không bỏ thời tiết, thường nhớ buộc niệm ở trong đạo phẩm; nếu ở ban ngày, hoặc đi, hoặc ngồi, suy nghĩ diệu pháp trừ khử ấm (ngũ ấm), cái (ngũ cái); đầu hôm, hoặc đi, hoặc ngồi, suy nghĩ diệu pháp trừ khử, cái; lại ở giữa đêm nằm nghiêng hông bên phải, tư duy buộc ý ở chỗ sáng kia; lại ở cuối đêm thức dậy hoặc đi, hoặc ngồi suy nghĩ thâm pháp, trừ khử ấm, cái (sự che đậy); như thế là Tỳ-kheo không bỏ mất kinh hành.

Nếu có Tỳ-kheo các căn tịch tĩnh, ăn uống biết tiết độ, chẳng mất kinh hành, thường nhớ buộc niệm trong đạo phẩm. Tỳ-kheo này liền thành tựu Nhị quả, ở trong pháp hiện tại đắc A-na-hàm. Ví như người khéo lái xe, ở giữa đường chánh bằng phẳng, lái xe tứ mã không có ngưng trệ, thì đến nơi mong muốn, quả nhiên không còn nghi ngờ. Tỳ-kheo này cũng lại như thế, nếu các căn tịch tĩnh, ăn uống có tiết độ, chẳng mất kinh hành, thường nhớ buộc ý trong đạo phẩm. Tỳ-kheo này liền thành tựu Nhị quả, ở trong pháp hiện tại lậu tận, đắc A-na-hàm.

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

7. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

– Có ba bịnh lớn. Thế nào là ba? Nghĩa là phong là bịnh lớn, đàm là bịnh lớn, lạnh là bịnh lớn. Ðó là, Tỳ-kheo có ba bịnh lớn này. Nhưng trị ba bịnh lớn này có ba thuốc hay. Nếu bịnh phong thì tô là thuốc hay và lấy tô làm thức ăn. Nếu bịnh đàm thì mật là thuốc hay và lấy mật làm thức ăn. Nếu bịnh lạnh thì dầu là thuốc hay và lấy dầu làm thức ăn. Ðó là, Tỳ-kheo, ba bịnh lớn này có ba thuốc hay này. Như thế, Tỳ-kheo, cũng có ba loại bịnh lớn này. Thế nào là ba? Ðó là tham dục, sân giận và ngu si. Ðó là, Tỳ-kheo, có ba bịnh lớn này. Nhưng ba bịnh lớn này lại có ba loại thuốc hay. Thế nào là ba? Nếu lúc tham dục khởi lên, dùng (phép quán) bất tịnh để trị và suy nghĩ đạo bất tịnh. Bệnh lớn sân giận thì dùng tâm từ để trị và suy nghĩ về đạo từ tâm. Bệnh lớn ngu si thì dùng trí tuệ để trị và đạo nhân duyên khởi. Ðó là, Tỳ-kheo, ba bịnh lớn này có ba thuốc hay này. Thế nên, Tỳ-kheo, hãy tìm phương tiện cầu ba thuốc này. Như thế, này các Tỳ-kheo, hãy học điều này!

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

8. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

– Có ba hạnh ác. Thế nào là ba? Ðó là thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác. Ðó là, Tỳ-kheo, có ba hạnh ác, nên tìm phương tiện tu ba hạnh lành. Thế nào là ba? Thân làm ác hãy tu thân làm lành, miệng nói ác hãy tu miệng nói lành, ý nghĩ ác hãy tu ý nghĩ lành.

Bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ này:

Hãy ngăn thân làm ác,

Tu tập thân làm lành,

Nhớ bỏ thân làm ác,

Nên học thân làm lành.

Hãy ngăn miệng nói ác,

Tu tập miệng nói lành,

Nhớ bỏ miệng nói ác,

Nên học miệng nói lành.

Hãy ngăn ý nghĩ ác,

Tu tập ý nghĩ lành,

Nhớ bỏ ý nghĩ ác,

Nên học ý nghĩ lành.

Thân hành là lành thay!

Khẩu hành cũng lại thế,

Ý hành là lành thay!

Tất cả cũng như thế,

Ngừa miệng, ý thanh tịnh,

Tịnh ba hạnh tích này,

Ðến chỗ tiên vô vi.

Như thế, các Tỳ-kheo, hãy bỏ ba hạnh ác, tu ba hạnh lành. Như thế, này các Tỳ-kheo, hãy học điều này!

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

9. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ có nhiều Tỳ-kheo, đến giờ đắp y, ôm bát vào thành khất thực. Lúc ấy, các Tỳ-kheo liền nghĩ rằng; ‘Chúng ta vào thành khất thực mà ngày giờ còn sớm, bây giờ nên dẫn nhau đến chỗ Phạm chí ngoại đạo’. Rồi chúng Tỳ-kheo liền đến chỗ Phạm chí dị học, thăm hỏi nhau xong, ngồi xuống một bên. Phạm chí liền hỏi Sa-môn rằng:

– Ðạo sĩ Cồ-đàm thường thuyết về Dục luận, Sắc luận, Thọ luận, Tưởng luận. Những luận như thế có gì sai khác? Chỗ luận của chúng tôi cũng là chỗ thuyết của Sa-môn, chỗ Sa-môn thuyết cũng là chỗ chúng tôi luận, thuyết pháp cũng giống sự thuyết pháp của chúng tôi, sự dạy dỗ cũng giống sự giáo hối của chúng tôi.

Chúng Tỳ-kheo nghe lời này rồi, cũng không nói hay cũng chẳng nói dở, liền từ chỗ ngồi đứng lên mà đi, cùng nghĩ rằng: ‘Chúng ta nên đem nghĩa này đến hỏi Thế Tôn’.

Bấy giờ chúng Tỳ-kheo sau khi ăn xong, liền đến chỗ Thế Tôn quỳ lạy rồi ngồi một bên. Lúc ấy, các Tỳ-kheo đem sự việc Phạm chí hỏi nhân duyên đầu đuôi bạch hết với Thế Tôn. Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

– Nếu Phạm chí kia hỏi thế. Các Thầy hãy đem nghĩa này đáp lại câu hỏi ấy: Dục có vị ngọt gì? Có tội lỗi gì nên xa lìa dục? Sắc có vị gì, có lỗi gì, nên xa lìa sắc? Thọ có vị gì, có lỗi gì, nên xa lìa thọ? Các Thầy nếu đem lời này đáp câu hỏi ấy, các Phạm chí kia sẽ im lặng không đáp được. Dù có nói cũng không thể hiểu nghĩa thâm sâu này, và tăng thêm ngu hoặc, đọa ở bờ mé. Vì sao thế? Vì chẳng phải cảnh giới của họ. Sau đó, này các Tỳ-kheo, trong Ma và Thiên ma, Thích, Phạm, Tứ Thiên vương, Sa-môn, Bà-la-môn, Người và Phi nhân; không ai có thể hiểu nghĩa sâu xa này, chỉ trừ Như Lai Ðẳng Chánh Giác và Thánh chúng của Như Lai, thọ giáo với Ta thì chẳng kể.

Dục có vị gì? Ðó là năm dục vậy. Thế nào là năm? Mắt thấy sắc khởi nhãn thức, rất ưa thích nghĩ chỗ vui của thế gian; tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm rất ưa thích nghĩ chỗ vui của người đời. Nếu lại ở trong năm dục này mà khởi tâm khổ vui thì đó là dục vị.

Thế nào là lỗi của dục? Nếu có một người con nhà vọng tộc, người đó hoặc học các kỹ thuật để tự mưu sống, hoặc học làm ruộng, hoặc học viết thư sớ, hoặc học đủ nghề, hoặc học toán số, hoặc học mưu mẹo, hoặc học điêu khắc, hoặc học thông tin từ kia đến đây, hoặc học hầu hạ vua, thân không tránh né lạnh, nóng, chịu đựng cần khô, không được tự do; họ làm cực khổ như thế để thu hoạch tiền tài sự nghiệp. Ðây là lỗi lớn của dục, hiện đời khổ não do ân ái này đều vì tham dục. Nhưng sau, người ấy làm lụng cần khô mà không thâu được tài bảo, liền buồn lo khổ não vô kể, liền tự nghĩ rằng: ‘Ta tạo công lao này, mất nhiều phương kế mà chẳng được tài sản’. So sánh như thế, nên người ấy nghĩ xa lìa. Ðó là nên xa lìa dục.

Lại nữa, gã dòng dõi vọng tộc kia, hoặc lúc làm phương kế này mà thâu hoạch được tài sản; đã thâu được tài sản rồi, lại phải tìm nhiều cách gìn giữ luôn luôn, sợ nhà vua ra lệnh đoạt, bị giặc trộm cắp, bị nước trôi, bị lửa đốt. Anh ta lại nghĩ: ‘Chính muốn chôn giấu, lại sợ sau quên mất; chính muốn bỏ ra sanh lời, lại sợ không xong, hoặc nhà sanh con ác, nó tiêu phí tan tành tài sản của ta’. Ðó là hoạn lớn của dục. Tất cả do gốc dục mà đến tai biến này.

Lại nữa, gã vọng tộc kia hằng sanh tâm này muốn bảo vệ tài sản, mà sau vẫn bị quốc vương chiếm đoạt, bị giặc cướp, bị nước trôi, bị lửa đốt, chỗ chôn giấu cũng lại không xong, chính muốn xuất ra lấy lời cũng lại không thâu hoặc được, nhà ở sanh con ác, tiêu tan tài sản, một vạn thâu chẳng được một, liền ôm sầu lo, khổ não, đấm ngực hô hoán: ‘Tài sản vốn được của ta, nay đều mất hết.’

Anh ta bèn trở nên ngu ngơ, tâm ý lầm lẫn. Ðó là hoạn lớn của dục, do gốc dục này không đến được vô vi.

Lại nữa, do gốc dục này mà mặc giáp, cầm gậy công phạt lẫn nhau. Ðã công phạt lẫn nhau rồi, hoặc trước bầy voi, hoặc trước đám ngựa, hoặc ở trước bộ binh, hoặc ở trước đám xe, thấy ngựa đấu với ngựa, thấy voi đấu với voi, thấy xe đấu với xe, thấy bộ binh đấu với bộ binh, hoặc chém, bắn lẫn nhau, dùng giáo đâm chém nhau. So sánh như thế, dục là hoạn lớn. Do dục làm gốc đưa đến tai biến này.

Lại nữa, do gốc dục này mà mặc giáp, cầm gậy hoặc ở cửa thành, hoặc ở trên thành, bắn chém lẫn nhau hoặc dùng giáo đâm, hoặc lấy vòng sắt nghiến đầu, hoặc lấy sắt vụn tung vào nhau, chịu khổ não như thế, người chết rất nhiều.

Lại nữa, dục biến đổi, không thường, thay nhau biến chuyển không ngừng. Người ta không hiểu dục này biến chuyển vô thường. Ðây gọi là hoạn lớn của dục.

Thế nào là nên xa lìa dục? Nếu người hay tu hành trừ tham dục. Ðó là xả bỏ dục. Có các Sa-môn, Bà-la-môn chẳng biết hoạn lớn của dục, cũng lại chẳng biết nguyên nhân xả dục; như thực chẳng biết oai nghi Sa-môn, Bà-la-môn. Ðã chẳng biết oai nghi Sa-môn, Bà-la-môn thì đây chẳng phải Sa-môn, Bà-la-môn, cũng lại chẳng thể toàn thân tác chứng để tự du hí. Nghĩa là các Sa-môn, Bà-la-môn xét biết dục là hoạn lớn, hay xa lìa dục, như thực chẳng dối, biết Sa-môn có oai nghi Sa-môn, Bà-la-môn có oai nghi Bà-la-môn, tự thân tác chứng mà tự du hí. Ðó là xa lìa dục.

Thế nào là sắc vị? Nếu có thấy các con gái dòng Sát-lợi, con gái dòng Bà-la-môn, con gái dòng Trưởng giả, tuổi mười bốn, mười lăm, mười sáu, chẳng cao, chẳng thấp, chẳng mập, chẳng ốm, chẳng trắng, chẳng đen, đoan chánh vô song, hiếm có trên đời; người kia vừa gặp nhan sắc ấy, khởi tuởng hoan hỉ. Ðó là sắc vị.

Thế nào là sắc đại hoạn? Lại nữa, nếu về sau thấy đàn bà kia tuổi tám mươi, chín mươi cho đến một trăm, nhan sắc đổi khác, đã qua tuổi thiếu, tráng niên, răng rụng, đầu tóc bạc trắng, thân thể cáu ghét, da dùn mặt nhăn, xương sống còng xuống, run rẩy, thân như chiếc xe mục nát, hình thể lắc lư, nương gậy mà đi; thế nào, Tỳ-kheo, vừa thấy sắc đẹp, sau lại biến đổi; há chẳng phải là hoạn lớn sao?

Các Tỳ-kheo đáp:

– Ðúng vậy, Thế Tôn!

Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo;

– Ðó là hoạn lớn của sắc. Lại nữa, đây nếu thấy cô gái kia mang bịnh nặng nằm trên giường, đại tiểu tiện chẳng thể đứng lên; thế nào, Tỳ-kheo vốn thấy sắc đẹp nay đến hoạn này; há chẳng phải là hoạn lớn sao?

Các Tỳ-kheo đáp:

– Ðúng vậy, Thế Tôn.

Thế Tôn bảo:

– Các Tỳ-kheo! Ðó là hoạn lớn của sắc. Lại nữa, Tỳ-kheo, nếu thấy cô gái kia thân hoại mạng chung đưa đến gò mả; thế nào, Tỳ-kheo, vốn thấy sắc đẹp, nay đã biến đổi, ở trong đó khởi tưởng khổ vui; há chẳng phải là hoạn lớn sao?

Các Tỳ-kheo đáp:

– Ðúng vậy, Thế Tôn.

Thế Tôn bảo:

– Ðó là hoạn lớn của sắc. Lại nữa, nếu thấy cô gái kia chết quá một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày cho đến bảy ngày, thân thể sình trương, thối rữa hôi hám, vung vãi mọi nơi; thế nào, Tỳ-kheo, vốn có sắc đẹp mà nay biến đổi thế này; há chẳng phải là hoạn lớn sao?

Các Tỳ-kheo đáp:

– Ðúng vậy, Thế Tôn.

Thế Tôn bảo:

– Ðó là hoạn lớn của sắc. Nếu thấy cô gái kia bị quạ diều, kên kên tranh nhau đến ăn thịt, hoặc bị cáo, cầy, hồ trông thấy ăn thịt, hoặc bị loài giun trùng, bò bay máy cựa nhỏ nhít thấy ăn thịt; thế nào, Tỳ-kheo, người ấy vốn có sắc đẹp, nay biến đổi thế này, ở trong đó khởi tưởng khổ vui, há chẳng phải là hoạn lớn sao?

Các Tỳ-kheo đáp:

– Ðúng vậy, Thế Tôn.

Thế Tôn bảo:

– Ðó là hoạn lớn của sắc. Lại nữa, nếu thấy cô gái kia, thân bị trùng quạ ăn một nửa, ruột, bao tử, máu thịt dơ dáy bất tịnh; thế nào, Tỳ-kheo, người ấy vốn có sắc đẹp, nay biến đổi đến thế này, ở trong đó khởi tưởng khổ vui. Ðây chẳng phải là hoạn lớn sao?

Các Tỳ-kheo đáp:

– Ðúng vậy, Thế Tôn!

Thế Tôn bảo:

– Ðó là hoạn lớn của sắc. Lại nữa, nếu thấy thân cô gái kia đã hết máu thịt, hài cốt liền nhau; thế nào, Tỳ-kheo, người ấy vốn có sắc đẹp, nay biến đổi đến thế, ở trong đó khởi tưởng khổ vui. Ðây há chẳng phải là hoạn lớn sao?

Các Tỳ-kheo đáp:

– Ðúng vậy, Thế Tôn.

Thế Tôn bảo:

– Ðó là hoạn lớn của sắc. Lại nữa, nếu thấy thân cô gái kia đã hết máu thịt, chỉ có gân ràng rịt như bó củi; thế nào, Tỳ-kheo, vốn có sắc đẹp mà nay biến đổi thế này, ở trong đó khởi tưởng khổ vui. Ðây chẳng phải là hoạn lớn sao?

Các Tỳ-kheo đáp:

– Ðúng vậy, Thế Tôn.

Thế Tôn bảo:

– Ðó là hoạn lớn của sắc. Lại nữa, nếu lại thấy thân cô gái kia, hài cốt tan rã, rơi vãi mỗi nơi, hoặc xương chân một chỗ, xương tay một chỗ, hoặc xương đùi một nơi, xương cánh tay một nơi, hoặc xương sườn một chỗ, xương bả vai một chỗ, hoặc xương cổ một nơi, đầu lâu một nơi; thế nào, các Tỳ-kheo, vốn có sắc đẹp mà nay biến đổi dường ấy, ở trong đó khởi tưởng khổ vui. Ðây há chẳng phải hoạn lớn sao?

Các Tỳ-kheo đáp:

– Ðúng vậy, Thế Tôn.

Thế Tôn bảo:

– Ðó là hoạn lớn của sắc. Lại nữa, nếu thấy thân cô gái kia xương màu bạc trắng như màu bồ câu; thế nào, Tỳ-kheo, vốn có sắc đẹp nay biến đổi đến thế, ở trong đó khởi tưởng khổ vui. Ðây há chẳng phải là hoạn lớn sao?

Các Tỳ-kheo đáp:

– Ðúng vậy, Thế Tôn.

Thế Tôn bảo:

– Ðó là hoạn lớn của sắc. Lại nữa, nếu thấy cô gái kia, hài cốt trải qua vô số năm, hoặc bị mục nát bại hoại đồng màu với đất; thế nào, Tỳ-kheo, người ấy vốn có sắc đẹp, nay biến đổi đến vậy, ở trong đó khởi tưởng khổ vui, há chăng phải hoạn lớn sao?

Các Tỳ-kheo đáp:

– Ðúng vậy, Thế Tôn.

Thế Tôn bảo:

– Ðó là hoạn lớn của sắc. Lại nữa, sắc này vô thường biến đổi, không được lâu dài, không có bền vững. Ðó là hoạn lớn của sắc.

Thế nào là sắc xuất yếu? Nếu hay xa lìa sắc, trừ các loạn tưởng. Ðó là xa lìa đối với sắc. Có các Sa-môn, Bà-la-môn đối với sắc, dính mắc vào sắc, chẳng biết hoạn lớn, cũng chẳng xa lìa, như thực mà chẳng biết. Ðây chẳng phải là Sa-môn, Bà-la-môn. Ở trong Sa-môn, chẳng biết oai nghi Bà-la-môn, chẳng thể dùng tự thân tác chứng để tự du hí. Có các Sa-môn, Bà-la-môn đối với sắc chẳng dính mắc sắc, biết rõ là hoạn lớn, năng biết xa lìa. Ðó là ở trong Sa-môn, biết oai nghi Sa-môn, ở trong Bà-la-môn, biết oai nghi Bà-la-môn, tự thân tác chứng để tự du hí. Ðó là xa lìa sắc.

Thế nào gọi là vị của thọ? Ở đây, Tỳ-kheo lúc được thọ vui, liền biết ta được thọ vui, lúc bị thọ khổ, liền biết ta bị thọ khổ. Nếu lúc được không vui không khổ liền biết ta được không vui không khổ. Nếu lúc được ăn thọ vui, liền biết ta được ăn thọ vui. Nếu lúc bị ăn thọ khổ, liền biết ta bị ăn thọ khổ. Nếu lúc được ăn không khổ không vui, liền biết ta không khổ không vui. Nếu lúc không ăn thọ khổ, liền biết ta không ăn thọ khổ. Nếu lúc không ăn thọ vui, liền tự biết ta không ăn thọ vui. Nếu lúc không ăn thọ không khổ không vui, liền tự biết ta không ăn thọ không khổ không vui.

Lại nữa, Tỳ-kheo, nếu lúc thọ vui, bấy giờ không thọ khổ, cũng lại không thọ không vui không khổ. Lúc đó ta chỉ có thọ vui. Nếu lúc thọ khổ, bấy giờ không có thọ vui, cũng không thọ không khổ không vui, chỉ có thọ khổ. Lại nữa, Tỳ-kheo, nếu lúc được thọ không khổ, không vui thì bấy giờ không có thọ vui hay thọ khổ, chỉ có thọ không khổ không vui.

Lại nữa, thọ là pháp vô thường biến đổi. Ðã biết thọ là pháp vô thường biến đổi, nghĩa là thọ là hoạn lớn.

Thế nào là thọ xuất yếu? Nếu hay ở thọ xa lìa thọ, trừ các loạn tưởng. Ðó là xa lìa thọ.

Có các Sa-môn, Bà-la-môn đối với thọ, dính mắc thọ, chẳng biết hoạn lớn, cũng chẳng xa lìa, như thực mà chẳng biết. Ðây chẳng phải Sa-môn, Bà-la-môn. Ở Sa-môn, chẳng biết oai nghi Sa-môn; ở Bà-la-môn, chẳng biết oai nghi Bà-la-môn; chẳng hay đem thân tác chứng để tự du hí. Có các Sa-môn, Bà-la-môn đối với thọ, không dính mắc thọ, biết rõ là hoạn lớn, hay biết xa lìa. Ðó là, ở Sa-môn biết oai nghi Sa-môn, ở Bà-la-môn biết oai nghi Bà-la-môn; đem thân tác chứng mà tự du hí. Ðó là xa lìa đối với thọ.

Lại nữa Tỳ-kheo, nếu Sa-môn, Bà-la-môn chẳng biết thọ khổ, thọ vui, thọ chẳng khổ chẳng vui; như thực mà chẳng biết, lại giáo hóa người khiến họ thực hành. Ðây không thích hợp. Nếu có Sa-môn, Bà-la-môn, hay xa lìa thọ, như thực mà biết, lại khuyên dạy người khiến xa lìa. Ðây chính thích hợp. Ðó là xa lìa thọ.

Này Tỳ-kheo, nay Ta đã thuyết về dính mắc dục, vị của dục, dục là hoạn lớn, lại có thể xả bỏ; cũng thuyết về dính mắc sắc, vị của sắc, sắc là hoạn lớn, hãy xa lìa sắc; đã thuyết về dính mắc thọ, vị của thọ, thọ là hoạn lớn, hãy xa lìa thọ. Chỗ các Như Lai phải hành, chỗ thi thiết, nay Ta đã nói đủ. Hãy thường nhớ ở dưới gốc cây, chỗ vắng vẻ, ngồi thiền, nghiền ngẫm chớ có giải đãi. Ðó là lời Ta dạy dỗ.

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

10. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

– Có ba thứ không bền chắc, thiết yếu. Thế nào là ba? Thân không bền chắc, mạng không bền chắc, tài sản không bền chắc. Ðó là, này Tỳ-kheo, có ba thứ không bền chắc. Ở đây, Tỳ-kheo, trong ba thứ không bền chắc nên tìm phương tiện thành tựu ba thứ bền chắc. Thế nào là ba? Thân không bền chắc cầu cho bền chắc, mạng không bền chắc cầu cho bền chắc, tài sản không bền chắc cầu cho bền chắc.

Thế nào là thân không bền chắc cầu cho bền chắc? Nghĩa là khiêm hạ, kính lễ, tùy thời thăm hỏi. Ðó là thân không bền chắc, cầu cho bền chắc. Thế nào là mạng không bền chắc cầu cho bền chắc? Ở đây, nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân, suốt đời không sát sanh, chẳng thêm dao gậy, thường biết hổ thẹn, có lòng từ bi, nghĩ đến tất cả chúng sanh, suốt đời chẳng trộm cắp, hằng nhớ bố thí, tâm không có ý tưởng lẫn tiếc; suốt đời không dâm dục, cũng không dâm vợ người; suốt đời không vọng ngữ, thường niệm chí thành, không khi dối người đời. Ðó là mạng không bền chắc cầu bền chắc. Thế nào là tài sản không bền chắc cầu bền chắc? Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân, thường nghĩ bố thí cho Sa-môn, Bà-la-môn, các người nghèo khổ; người cần ăn cho ăn, cần uống cho uống, y phục, ẩm thực, giường trải đồ nằm, bệnh tật thuốc thang, cửa nhà thành quách; những vật cần dùng thảy đều cho hết; như thế là tài sản chẳng bền chắc, cầu cho bền chắc.

Ðó là, này Tỳ-kheo, đem ba thứ không bền chắc đó cầu ba thứ bền chắc này.

Thế Tôn liền nói bài kệ:

Biết thân không bền chắc,

Mạng cũng không kiên cố,

Tài sản, pháp suy hao,

Nên cầu sự bền vững.

Thân người rất khó được,

Mạng cũng chẳng dừng lâu,

Tài sản, pháp mòn diệt,

Hoan hỉ niệm ban phát.

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

Ðệ nhất đức phước nghiệp.

Ba nhân, ba an, Cù.

Ba đêm, bịnh, hạnh ác,

Khổ trừ, không bền chắc.

Sưu tầm 4

Ý NGHĨA NGHI LỄ PHẬT GIÁO

LỜI NÓI ĐẦU

Các nhà nghiên cứu tôn giáo cho rằng một tôn giáo phải có đủ ba yếu tố: Triết học, nghi lễ, và thần thoại. Phật giáo là một tôn giáo nên cũng có đủ ba yếu tố trên. Tuy nhiên, là một tôn giáo không có thượng đế nên yếu tố nghi lễ và thần thoại của đạo Phật mang sắc thái và ý nghĩa khác. Mặt khác, hai yếu tố này đối với Phật giáo không được nhấn mạnh.

Thời Đức Phật còn tại thế, Bà-la-môn giáo coi việc nghi lễ tế tự là hàng đầu. Nghi lễ là đặc quyền của tu sĩ. Ý nghĩa của nghi lễ là sự giao tiếp giữa các tu sĩ với Thượng đế, Thần linh, điều mà mọi người bình thường không với tới được. Đức Phật là người đả kích một cách mạnh mẽ vào thành trì nghi lễ ấy, rõ ràng từ thuở ban đầu đạo Phật đã từ bỏ một ý nghĩanghi lễ như vậy. Sau khi Đức Phật nhập diệt, đời sống của Tăng đoàn có thay đổi, do sự thích nghi với phong tục tập quán, đáp ứng nhu cầu của quần chúng để tồn tại và phát triển, vấn đề nghi lễ được đặt ra.

Đạo Phật Việt Nam chịu sự ảnh hưởng đạo Phật Trung Hoa và chế độ phong kiến nên đã du nhập học thuật của Khổng, Lão và tín ngưỡng dân gian. Do đó, khía cạnh nghi lễ của Phật giáo khá phức tạp và phát triển khá mạnh mẽ. Nhất là thời kỳ phong kiến kéo dài, nghi lễtế tự được ưa chuộng khuyến khích.

Vì vậy, triết lý đạo Phật cao siêu và trong sáng mà vẫn không khống chế hay giới hạn nổi sự phát triển của nghi lễ. Nói cho công bằng thì nghi lễ cũng là góp phần một cách thiết thực và hiệu quả trong công cuộc hoằng pháp lợi sanh, điều mà bậc tiền bối, Tổ sư thường nhấn mạnh rằng: Nghi lễ dù quan trọng vẫn chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sinh vào đạo, chứ không phải là con đường thật sự đạt đến giác ngộ.

ĐỊNH NGHĨA

Nghi: là dáng, mẫu, nghi thức, nghi lễ, khuôn phép… Lễ: là lễ giáo, lễ bái, cúng tế, tôn thờ, cung kính…Nghi lễ như vậy có ý nghĩa rất rộng, bao trùm hành vi, thái độ, tín ngưỡng, văn hóa, ngôn ngữ, phong cách của con người và xã hội. Trong nghĩa hẹp thì nghi lễ là nghi thức hành lễ tụng niệm mang tính tín ngưỡng thờ phụng của một tôn giáo.

Nghi lễ thường đi đôi với nhạc. Lễ và Nhạc, theo triết lý chủ yếu của Nho giáo, có tác dụngchuyển hóa con người và xã hội. Đức Khổng Tử coi lễ rất quan trọng để kiểm soát hành vi, ước muốn bất thiện của con người, còn nhạc để điều hòa cảm hóa lòng người. Nhạc và Lễ của Nho giáo đã ăn sâu vào đường lối cai trị của quốc gia và quan niệm sống của xã hộithời xưa. Nó ảnh hưởng nhất định vào nếp sống của con người và xã hội Á Đông ngày nay.

Nghi lễ Phật giáo cũng có hai phần Lễ và Nhạc, tùy theo truyền thống văn hóa nghệ thuật của mỗi miền mà phần lễ nhạc Phật giáo sẽ ảnh hưởng và biểu hiện theo truyền thống ấy. Nghi lễ Phật giáo mang màu sắc lễ nhạc cổ truyền của dân tộc, là một mảng của nền văn hóa truyền thống cần phải tôn trọng bảo tồn.

Ý NGHĨA CỦA NGHI LỄ

1. Nghi lễ biểu hiện lòng tôn kính Tam bảo

Để bày tỏ niềm tin, lòng thành kính của mình đối với Đức Phật, chánh pháp và chúng tăng, người Phật tử đảnh lễ cúng dường, ca ngợi Tam bảo. Niềm tin Tam bảo sâu sắc sẽ tạo một sự chuyển hóa trong tâm hồn con người. Người tu tập dựa vào đức tin cũng có những tiến bộ tâm linh nhất định. Trong Kinh Trung Bộ, Đức Phật đề cập đến bảy quả vị tu chứng, trong đó quả vị “Tùy tín hành” là một; quả vị này thuộc về tình cảm hay niềm tin vững chắc đối với Tam bảo.

Trong ý nghĩa tôn giáo, nghi lễ là một món ăn tinh thần cần thiết của tín đồ. Khi mà tâm hồn con người chưa được khai phóng triệt để, nói cách khác là trình độ nhận thức của tín đồ chưa đạt đến tầm cao, chưa tự giải thoát đối với mọi hệ lụy của cuộc đời thì nghi lễ biểu lộ lòng thành kính trong sạch của tín đồ đối với bậc Đạo sư, đối với Pháp, đối với Tăng, qua hành vi ngôn ngữ. Trong trường hợp này, nghi lễ tất nhiên được coi trọng và khuyến khích, vì đó là hành động tăng thượng tâm, thiện pháp củng cố, ác pháp tổn giảm.

Có người cho rằng, nghi lễ là hình thức không cần thiết, họ chỉ tu tâm thôi, tâm mới quan trọng. Thực ra, tâm có tu hay không phải coi tướng có ổn định hay không. Trong nghĩa rộng của nghi lễ thì ba ngàn oai nghi, tám vạn tế hạnh đều là nghi lễ cả.

2. Nghi lễ nghệ thuật hóa triết lý

Nền triết lý của đạo Phật rất cao siêu nên đối với quần chúng bình dân khó thâm nhập. Thông qua nghi lễ, đạo lý cao siêu được cảm nhận bằng trái tim hơn là bằng trí óc. Triết lý được nghệ thuật hóa có vẻ như nghịch lý; tuy nhiên, cách thể hiện của nghi lễ lại dựa trêncơ sở triết lý.

Điều đó có nghĩa là nội dung và ý nghĩa nghi lễ không xa rời giáo lý Phật dạy. Có điều là chúng ta chỉ có thể cảm nhận được bằng trực giác hay bằng tình cảm mà không thể diễn tả bằng ngôn từ ý niệm. Có những bài tán, kệ tụng rất thâm thúy, rất hay, làm ta xúc động mạnh, làm tâm hồn ta sáng lên, nhưng ta có thể không hiểu hết ý tứ của nó.

Đó là lý do tại sao có những vị thích những bài kệ tụng bằng chữ Hán hơn là dịch ra tiếng Việt. Khi nghi lễ chuyên chở được đạo lý cao siêu thì tín ngưỡng của người Phật tử trở thành pháp môn tu tập và phương pháp hành đạo.

Có những vị thầy chuyên môn về nghi lễ cho rằng nhạc Phật giáo là một nghệ thuật diễn đạt đời sống tâm linh vượt thoát khổ đau phiền muộn, cũng như một thi sĩ sáng tác một bài thơ hay đem đến cho người thưởng thức một niềm vui nhẹ nhàng và thanh thoát. Với quan điểm này, họ gợi ý cho ta có cái nhìn về nghi lễ như là một bộ môn nghệ thuật mà mục tiêu là đem lại an lạc cho tâm hồn.

Ví dụ: Khi ta đi vào một ngôi chùa cổ kính ẩn hiện dưới những tàn cây râm mát, không gian yên tĩnh, tiếng chuông ngân nga dìu dặt, tiếng mõ ấm áp vọng đều, những âm điệu của lời kinh tiếng kệ, khi thì cao vút, khi thì trầm hùng, vỗ về dịu nhẹ; tất cả những điều ấy làm cho ta lắng dịu tâm hồn, tan biến những tư dục, những cuồng vọng âu lo phiền muộn. Quả thật, nghi lễ là một nghệ thuật chuyên chở triết lý vào lòng người.

3. Nghi lễ là phương tiện độ sanh

Trong các phương tiện dẫn dắt người vào đạo, nghi lễ là một phương tiện phổ biến, hiệu quả rất cao, có nhiều người không bao giờ đi chùa, nhân dịp cha mẹ, ông bà qua đời, quý thầy giúp đỡ lễ tang, từ đó họ đi chùa quy y. Nhu cầu về tinh thần của con người rất lớn. Cầu nguyện là một phương pháp tốt nhất khi những bất an xảy đến cho họ mà không thể giải quyết được bằng các phương tiện khác.

Không ai có thể nắm chắc những gì mình có, không ai có thể biết được bao giờ tai nạn sẽ đến, mình sẽ chết hay chia tay với người thương. Mặt khác, khi thể hiện tình cảm với người đã khuất hay bày tỏ những ước mơ thầm kín đối với cuộc đời…, người ta thường hướng về cầu nguyện bằng những nghi lễ tôn giáo. Vì nghi lễ đáp ứng nhu cầu tinh thần tình cảm nên dễ thuyết phục quần chúng hơn những bài thuyết pháp đầy triết lý.

Đã là phương tiện thì chúng không phải là chân thật. Vì vậy vị thầy sử dụng nghi lễ cần có những giới hạn nhất định và nên có thái độ vô chấp đối với nghi lễ. Nhất là cần tạo cho nghi lễ có những ý nghĩa giải thoát khổ đau.

4. Nghi lễ làm trang nghiêm tâm và đạo tràng

Một cuộc lễ đúng cách có tác dụng làm cho tâm hồn định tĩnh, chuyên chú trang nghiêm. Con người rất dễ bị ngoại cảnh tác động, nên một khung cảnh trang nghiêm có nghi lễ, quy củ, làm cho lòng người có những rung cảm và ứng xử thích hợp. Nghi lễ sẽ tạo thành không khí lễ nghĩa, làm cho con người có tập quán đạo đức hướng về điều tốt điều phải một cách tự nhiên. Ở chỗ có mồ mả thì có cái không khí bi ai; ở chỗ có đền miếu chùa chiền thì có cái không khí tôn kính. Nhờ nghi lễ mà mọi người tự khép mình vào trong cái không khí ấy, và điều quan trọng là nghi lễ tạo ra không khí đạo đức.

Khi tiến hành một cuộc lễ, người chủ lễ hay những người tham dự lễ thân, khẩu, ý đều thanh tịnh, chuyên chú vào nội dung cuộc lễ. Như vậy tâm của mọi người đều được trang nghiêm. Ngay cả những người không theo tôn giáo, hay không thích nghi lễ tôn giáo, khi họ đứng vào hàng ngũ hay đạo tràng thì tự họ trở nên cung kính một cách tự nhiên. Nếu một khóa lễ không đảm bảo được tính nghi lễ thì sẽ không có tác dụng tốt như thế mà nó có thể phản tác dụng.

TÁC DỤNG CỦA NGHI LỄ

Nghi lễ có tác dụng rất lớn đối với các tôn giáo. Phật giáo dù không coi trọng nghi lễ nhưng nó vẫn chi phối phần lớn các sinh hoạt Phật sự, đôi khi còn là hoạt động chính của một ngôi chùa, bởi lẽ để đáp ứng nhu cầu của quần chúng và nhu cầu hoằng pháp.

1. Đối với quần chúng

Phần đông quần chúng đến với đạo Phật qua nhu cầu nghi lễ, nghĩa là đến với đạo bằngcon đường tình cảm. Một khóa lễ đúng mức có tác dụng cảm hóa rất lớn không thua một thời pháp hay. Có nơi nghi lễ lại có tác dụng hơn sự thuyết giảng. Nhu cầu phục vụ nghi lễvừa cao rộng vừa gắn bó với các sinh hoạt tinh thần, tình cảm, ước muốn của nhân dân.

Chúng ta biết rằng, xã hội Á Đông chịu ảnh hưởng nền văn hóa Nho, Phật, Lão, nhất là Nho giáo. Trong đó, Nhạc lễ là phương cách chính để cải hóa con người và xã hội. Nhạc lễ đã ăn sâu vào đời sống tinh thần và đạo đức của con người. Vì vậy, Phật giáo đã có một gia tài nghi lễ rất phong phú và chiếm một vị trí quan trọng trong tiến trình duy trì và phát triển đạo pháp.

Mối liên hệ của con người trong xã hội rất phức tạp. Trong đó, các mối liên hệ tình cảm chiếm phần lớn như là: Cúng kỵ ông bà cha mẹ tổ tiên, ma chay, hiếu hỷ, âm binh cô hồn, thờ cúng thần thánh, cầu an, cầu siêu, cưới hỏi, xây dựng nhà cửa, chúc thọ…

Các nghi lễ tôn giáo và lễ hội truyền thống như: Tết nguyên đán, rằm tháng giêng, lễ Phật đản, lễ vía Phật, Bồ-tát, Tổ sư, lễ Vu lan, rằm tháng mười… Những lễ như vậy chi phốimạnh mẽ đến các sinh hoạt tinh thần, văn hóa của đời sống nhân dân. Quý thầy được quần chúng coi trọng và ngôi chùa là nơi diễn ra hầu hết các buổi lễ ấy. Thông qua nhu cầu nghi lễ, chúng ta tạo được mối quan hệ gắn bó giữa đạo và đời, giữa người tu hành với quần chúng nhân dân. Qua đó, chúng ta có thể chuyển hóa họ bỏ ác làm lành, sống có đạo đức, an lạc.

2. Đối với đạo pháp

Duy trì và phát triển đạo pháp là nhiệm vụ của người Phật tử, phát triển tín đồ là nhiệm vụcủa chư tăng trong Giáo hội, nhất là các vị Trụ trì. Để làm tốt nhiệm vụ đó, vị Trụ trì phải nắm vững nghi lễ. Thực hành nghi lễ đúng mức sẽ là phương tiện sắc bén để hoằng pháp. Tuy nhiên, nếu không vững vàng bản lĩnh, ta có thể biến nghi lễ thành mê tín dị đoan, biến đạo Phật thành tà đạo.

Nhu cầu nghi lễ của quần chúng rất khó kiểm soát, có những yêu cầu về nghi lễ rất phi lýnhưng không ai hướng dẫn hoặc mạnh dạn bác bỏ nên chúng tồn tại một cách có hại. Người trụ trì vững chãi về nghi lễ và hiểu rõ ý nghĩa của nó sẽ dễ dàng hướng dẫn quần chúng đi vào chánh pháp. Bằng ngược lại, mình sẽ làm công không cho tà đạo, tuyên truyền giùm họ những nghi lễ vốn không được chấp nhận trong đạo Phật, điều đó dẫn đến sự pha loãng phẩm chất tốt đẹp của đạo Phật.

Sử dụng nghi lễ như là phương tiện độ sanh cần phải có định hướng rõ và nhất quán, nghĩa là nghi lễ phải có ý nghĩa và nội dung đúng chánh pháp. Như vậy nghi lễ mới có ích cho đạo pháp.

MẶT TRÁI CỦA NGHI LỄ

Yếu tố nghi lễ đối với Phật giáo không được coi trọng mấy so với yếu tố triết lý hay tu tập, thiền định. Bởi lẽ, nghi lễ thỏa mãn nhu cầu cảm xúc mang tính sơ khai của một người mới vào đạo. Vì vậy, nghi lễ dễ bị đi lệch hướng, dẫn đến hạ thấp giá trị của nghi lễ. Nghĩa là cũng có những tác dụng tiêu cực, có thể có ba phương diện tiêu cực như sau:

1. Nghi lễ là phương tiện kiếm sống

Có một số Tăng Ni hành nghề cúng bái để sinh sống; họ đáp ứng mọi yêu cầu về nghi lễcủa quần chúng với điều kiện giá cả thỏa thuận, có chùa còn niêm yết bảng giá của một khóa lễ là bao nhiêu, tùy theo thời kinh dài hay ngắn, lễ lớn hay nhỏ.

Vai trò của họ một mặt nào đó cũng góp phần vào công việc hoằng pháp nhưng chủ yếu là lợi ích về kinh tế. Họ không cần phải thực hành nghi lễ đúng chánh pháp mà tùy thuộc vào đối tượng cần cái gì theo tiêu chuẩn của kinh tế thị trường: “Khách hàng là thượng đế”. Vì vậy, lễ nào cũng đáp ứng sẽ làm cho giá trị của nghi lễ bị hạ thấp. Qua đó, một bộ phận nhân dân ngoài xã hội nhìn vào đạo Phật qua khía cạnh nghi lễ của các vị này, và họ xem đạo Phật như là một loại tín ngưỡng dân gian thấp kém. Một vị tu sĩ trở nên một thầy cúng, thường thì không cần phải tinh chuyên giới luật hay học hành kinh luận gì, chỉ cần nắm một ít nghi lễ là được. Đó là tai hại của nghi lễ trong ý nghĩa tiêu cực.

2. Nghi lễ và mê tín dị đoan

Vấn đề nghi lễ chân chính, đúng chánh pháp và nghi lễ không đúng chánh pháp ít ai đặt ra cho phân minh. Sự mập mờ của nó làm cho nghi lễ dễ bị lệch lạc. Nhu cầu nghi lễ của quần chúng rất đa dạng và phức tạp. Tùy theo tín ngưỡng địa phương, phong tục tập quán văn hóa của từng vùng mà yêu cầu nghi lễ trở nên phức tạp đa dạng.

Tiêu chuẩn của nghi lễ chân chính không rõ, chỉ dựa vào trình độ của một vị thầy mà sắc thái nghi lễ của nơi ấy đúng hay sai. Ngày xưa có một số người ngoài xã hội, họ hành nghềbói toán thiên văn, địa lý, ngày giờ tốt xấu, trừ tà, trừ quỷ, rước hồn vớt xác, cúng hình nhân thế mạng, đốt vàng mã … Ngày nay các loại nhu cầu ấy đều nằm ở trong chùa. Có nhu cầu đương nhiên phải giải quyết nhu cầu. Nếu vị Trụ trì không vững chãi, không đủ trình độ thì dễ dàng biến chùa thành nơi hoạt động mê tín dị đoan.

Mê tín hay chánh tín khác nhau căn bản ở chỗ ý nghĩa đạo lý của nghi lễ ấy, nội dung phải phù hợp với đạo lý nhân quả, nghiệp báo, duyên sinh. Nếu người chủ lễ thông suốt về nội dung và mục đích của cuộc lễ, có thể biến tà đạo thành chánh đạo.

Như chàng Sigala theo ngoại đạo lễ bái lục phương với ý nghĩa cầu thần sáu phương phù hộ. Đức Phật chỉ cho anh ta ý nghĩa khác mang tính đạo đức hơn, đó là sáu mối quan hệ trong gia đình và xã hội. Nhờ vào sự hướng dẫn sáng suốt của các vị Trụ trì, quần chúngsẽ dần dần chuyển hướng đúng theo chánh pháp.

3. Nghi lễ làm cho đạo Phật thuần túy tín ngưỡng

Nghi lễ nếu được coi trọng thực hành thường xuyên và không có gì thêm nữa thì nó sẽ đưa đạo Phật trở thành tín ngưỡng thuần túy. Nghĩa là đạo Phật sẽ đánh mất phần cao siêu và giá trị là trí tuệ và giải thoát. Niềm tin vào thần thánh, cúng tế cầu nguyện là tín ngưỡngphổ thông. Nếu không có phần triết lý đạo học, thì đạo Phật sẽ đứng ngang hàng với các tín ngưỡng dân gian khác. Nghi lễ như vậy không còn là phương tiện nữa mà trở thànhmục đích cứu cánh.

Có nhiều người nhìn đạo Phật qua các khía cạnh tín ngưỡng, coi những người Phật tử là những người chuyên “cầu trời khẩn Phật” và những ông thầy tu chỉ biết quỳ gối lạy lục cầu xin. Tín ngưỡng dù là một loại hình văn hóa nhưng nó không biểu hiện sự giải thoát giác ngộ và thoát khổ được. Đạo Phật chỉ coi tín ngưỡng là bước đầu tiên mà thôi. Do đó, nghi lễ dễ biến đạo Phật thành một loại tín ngưỡng thuần túy.

KẾT LUẬN

Nghi lễ Phật giáo là một pháp môn tu tập cũng có tác dụng chuyển hóa khổ đau, làm giảm áp lực của tham lam, sân hận, si mê. Mặt khác, đó là một phương tiện hoằng pháp lợi sanh rất có hiệu quả. Suốt gần 2.000 năm, đạo Phật có mặt trên đất Việt, nghi lễ Phật giáo đã tạo thành những dấu ấn tín ngưỡng văn hóa, đã xây dựng nền đạo đức và truyền thống văn hóa tâm linh của dân tộc Việt.

Để tiếp tục thực hiện tốt đẹp chức năng của nghi lễ Phật giáo, trong thời hiện đại, chúng tacần phải quan tâm hơn về việc thay đổi những gì không còn phù hợp, để làm cho nghi lễvẫn là nét văn hóa đẹp của xã hội và đáp ứng nhu cầu hoằng pháp trong thế kỷ mới./.

chuathientruc@gmail.com

Sưu Tầm 05

Ý Nghĩa Lễ Bái Sáu Phương

HT Thích Minh Châu

Lời đức Phật trong kinh Giáo thọ Thi-ca-la-việt không có gì là cao xa và khó hiểu, trái lại nó rất cụ thể, sinh động, xuất phát từ thực tiễn cuộc sống. Mọi người chúng ta nên lấy lời dạy trong kinh này làm kim chỉ nam để chọn bạn lành, tránh kẻ ác, hành xử đúng với tinh thần lời đức Phật dạy.

Bà-la-môn giáo cho rằng mục đích của nghi lễ là cầu cho được sự gia hộ của Thần linh, và nhờ có Thần linh gia hộ mà được phúc tránh họa. Và tổ chức nghi lễ đúng phép, như qui định trong sách Thánh Vệ-đà là hành vi đạo đức tối thượng.

Đức Phật Thích Ca bác bỏ một quan niệm về nghi lễ như vậy. Một người làm ác, cũng như tảng đá quăng xuống sông, nhất định phải chìm xuống đáy, dù có bày biện bao nhiêu nghi lễ cầu Trời, tế Thần thì tảng đá cũng phải chìm xuống đáy sông, kẻ làm ác nhất định phải chịu khổ báo, phải sanh ở cõi dữ. Trái lại, một người cả đời làm điều thiện, điều lành, nhất định sẽ được hưởng phước báo, sau khi mạng chung, nhất định sẽ được sanh lên các cõi lành, cũng như một ghè bơ sữa đổ xuống sông, bố trí hàng trăm, ngàn người ra nhận chìm ghe xuống sông thì bơ sữa vẫn nổi lên mặt nước. Con người sống, làm điều thiện, điều lành cũng như vậy. Dù có ai vu oan giá họa cho người ấy, thề độc và nguyền rủa người ấy phải đọa địa ngục, nhưng người ấy nhất định vẫn được phước báo, sau khi mạng chung tất yếu sẽ được sanh lên cõi trời cõi người.

Đó là lý do vì sao đạo Phật coi trọng đạo đức, và đạo Phật được mệnh danh là một tôn giáo đạo đức.

Vì vậy đức Phật dạy cho thanh niên Bà-la-môn Singala rằng lễ phương Đông không phải là quay mặt về phương Đông mà làm lễ. Phương Đông là cha mẹ. Lễ phương Đông là đối xử có đạo đức với cha mẹ. Phương Nam là thầy dạy. Phương Tây là vợ con. Phương Bắc là bạn bè. Phương dưới là lao công, người phục vụ. Phương trên là Tu sĩ Sa-môn và Bà-la-môn. Lễ sáu phương tức là đối xử có đạo đức với cha mẹ, thầy dạy, vợ con, bạn bè, tôi tớ và Sa-môn, Bà-la-môn.

Con cái lễ phương Đông đúng theo pháp của bậc Thánh, tức là đối xử có đạo đức với cha mẹ. Và thế nào là đối xử có đạo đức với cha mẹ? Trong Kinh dạy, con cái đối với cha mẹ phải làm tròn năm bổn phận. Cụ thể là:

Nuôi dưỡng cha mẹ chu đáo; làm tròn mọi bổn phận đối với cha mẹ; giữ gìn tốt gia phong và truyền thống gia đình; bảo quản tốt gia sản do cha mẹ để lại; làm tang lễ chu đáo khi cha mẹ qua đời.

Ngược lại, như trong kinh nói, cha mẹ cũng có năm bổn phận đối với con cái. Cụ thể là: Ngăn chặn con làm điều ác; khích lệ con làm điều lành; dạy con có nghề nghiệp; cưới vợ xứng đáng cho con; để của thừa tự lại cho con.

Lễ phương Nam theo đúng pháp của bậc Thánh là đối xử có đạo đức với thầy dạy mình. Cụ thể là: Khi thầy đến, đứng dậy chào thầy; hầu hạ thầy chu đáo; siêng năng học tập; phục vụ thầy đến nơi đến chốn; chuyên tâm học nghề ngiệp do thầy dạy.

Thầy dạy đối với học trò mình cũng có năm bổn phận, cụ thể là: Trao truyền kiến thức của mình cho học trò; dạy cho học trò biết giữ gìn và sử dụng kiến thức được trao truyền; dạy cho trò tinh thông, nắm vững nghề nghiệp; giới thiệu, khen ngợi học trò mình trước bạn bè quen thuộc; bảo đảm nghề nghiệp cho học trò mình, sau khi học trò thành tài.

Lễ phương Tây theo đúng pháp của bậc Thánh tức là người chồng đối xử có đạo đức với vợ mình. Cụ thể, người chồng phải làm tròn năm bổn phận đối với vợ: Tôn trọng vợ; không bao giờ tỏ ra bất kính đối với vợ; trao quyền hành trong nhà cho vợ; sắm đầy đủ nữ trang cho vợ; trung thành, chung thủy với vợ.

Đối lại, người vợ cũng có năm bổn phận đối với chồng : Làm tốt đẹp bổn phận người vợ đối với chồng; khéo đón tiếp bà con, họ hàng của chồng; khéo giữ gìn tài sản của chồng; trung thành chung thủy với chồng; khéo léo, nhanh nhẹn trong mọi công việc nội trợ và các công việc khác.

Lễ phương Bắc theo đúng pháp của bậc Thánh tức là đối xử có đạo đức với bạn bè. Đối xử có đạo đức với bạn, anh có năm bổn phận : Bố thí giúp đỡ bạn; nói lời dịu hiền với bạn; làm mọi việc có lợi cho bạn; cùng làm việc với bạn; không lường gạt bạn.

Đối lại, bạn đối với anh cũng phải: Bảo vệ anh, khi anh mất cảnh giác; bảo vệ tài sản cho anh, khi anh phóng túng; làm nơi nương tựa cho anh, khi anh gặp nguy hiểm; không tránh xa anh, khi anh gặp khó khăn; kính trọng gia đình anh.

Lễ phương dưới theo đúng pháp của bậc Thánh là người chủ phải đối xử có đạo đức với người phục vụ mình, làm công cho mình. Cụ thể là phải: Khi giao việc phải lượng sức người giúp việc; đảm bảo điều kiện ăn uống và tiền công tử tế; lo chữa bệnh cho người giúp việc khi anh ta ốm đau; chia xẻ cho người giúp việc của ngon vật lạ; thỉnh thoảng cho người giúp việc nghỉ phép.

Đối lại người giúp việc cũng có năm bổn phận : Dậy trước khi chủ dậy; ngủ sau khi chủ ngủ; tự bằng lòng với những quà tặng của chủ; khéo làm mọi công việc được giao phó; giữ gìn thanh danh cho chủ.

Cuối cùng lễ phương trên theo đúng pháp của bậc Thánh là đối xử tốt đẹp với các vị Sa-môn và Bà-la-môn, tức là những người xuất gia tu hạnh xuất thế. Người chủ gia đình, trong quan hệ giao tiếp với các vị Tu sĩ Sa-môn và Bà-la-môn phải: Có lòng từ trong hành động nơi thân; có lòng từ trong hành động nơi lời nói; có lòng từ trong ý nghĩ; cúng dường các vị ấy những vật dụng cần thiết; mở rộng cửa đón chào khi các vị ấy đến.

Để đối lại, các vị Tu sĩ Sa-môn và Bà-la-môn đối đãi với gia chủ cũng có các bổn phận: Ngăn chặn không để làm ác; khuyến khích làm điều thiện; có lòng từ bi đối với gia chủ; thuyết pháp cho gia chủ những điều chưa được nghe, làm cho thanh tịnh những điều được nghe; chỉ bày cho gia chủ con đường tu tập để sanh lên các cõi Trời.

Kết Luận

Kinh “Giáo thọ Thi-ca-la-việt” (kinh Singalovada) trong Kinh Tạng Pali có thể được xem là một trình bày rất tổng quát, nhưng vẫn đầy đủ và cụ thể về đạo đức Phật giáo áp dụng trong đời sống gia đình và xã hội.

Đạo đức Phật giáo thấm nhuần một tinh thần bình đẳng. Con cái có năm bổn phận đối với cha mẹ, thì đổi lại, cha mẹ cũng có năm bổn phận đối với con cái. Thầy trò, vợ chồng, bè bạn, chủ tớ tức là gia chủ và người làm công, gia chủ và các vị Sa-môn và Bà-la-môn đều có các bổn phận đối đãi qua lại với nhau tương xứng như thế. Quyền lợi và bổn phận đi đôi với nhau. Không lớp người nào chỉ có quyền lợi mà không có bổn phận.

Nhưng đặc biệt cảm động là sự quan tâm của đức Phật đối với những người phục vụ, những người làm công, những tôi tớ, nô bộc. Có thể nói, đó là lớp người bị khinh rẻ nhất trong xã hội đẳng cấp của Ấn Độ thời cổ đại, hồi đức Phật còn tại thế. Đức Phật nhấn mạnh người chủ có những bổn phận như : Khi giao việc phải lượng sức người giúp việc, đảm bảo ăn uống và tiền công xứng đáng, săn sóc người giúp việc khi ốm đau, và nhất là hai bổn phận của người chủ: chia xẻ của ngon vật là cho người giúp việc và thỉnh thoảng phải cho người giúp việc nghỉ phép v.v…

Có thể nói đó là luật công đoàn rất tiên tiến, rất tiến bộ, mà đức Phật đã phác thảo cách đây gần ba nghìn năm, cho một xã hội Ấn Độ có chế độ đẳng cấp khắc nghiệt nhất. Chúng ta nhớ là, ở đất nước Hy Lạp thời ấy, người nô lệ chỉ có thể hưởng quy chế đồ vật hay súc vật. Còn người nô bộc tôi tớ trong xã hội Ấn Độ cổ đại là thuộc đẳng cấp Thủ-đà-la (Sudra) là đẳng cấp hạ tiện nhất. Nhưng đức Phật, với tâm từ bi và bình đẳng, yêu cầu lớp người nô bộc, tôi tớ, làm công cũng phải được được đối xử tử tế, được gia chủ tôn trọng và quan tâm đúng mức trong công việc làm cũng như trong mọi sinh hoạt.

Đạo đức không phải là để nói mà để thực hành ngay trong đời sống hiện tại. Nói đạo đức mà sống phi đạo đức tức là nói dối (trong kinh dùng từ nói như phân). Như đức Phật đã từng phê phán những kẻ nói dối, nói mà không làm, nói và làm không đi đôi với nhau.

Cuối cùng, nhân ngày lễ cổ truyền của dân tộc và lễ Thành đạo, chúng tôi muốn có vài lời, nhắn nhủ cùng quý vị Phật tử rằng, quý vị thường xuyên đến chùa lễ Phật, nghe Pháp, hộ trì chư Tăng làm các Phật sự cần thiết để làm cho dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Tôi thành thật tán thán công đức ấy của quý vị. Thế nhưng đến chùa lễ Phật, nghe Pháp, hộ trì chư Tăng … tất cả những công việc đó chỉ phân biệt người Phật tử với những người đời không bao giờ đến chùa, không lễ Phật, nghe Pháp và hộ trì chư Tăng. Tất cả những công việc đó phân biệt người Phật tử chứ không làm ra người Phật tử. Nghe pháp rồi, sống như pháp mới thật sự là người Phật tử. Hộ trì chư Tăng rồi, làm đúng theo lời chư Tăng thuyết giảng, mới thật sự là Phật tử. Như hôm nay, nhân ngày lễ đức Phật Thành đạo, tôi trình bày những lời dạy của đức Phật trong kinh Singalovada, tức Giáo thọ Thi-ca-la-việt cũng là một cách phục vụ cho quí Phật tử. Những lời dạy đó của đức Thế Tôn, mặc dù nói ra cách đây gần ba nghìn năm, nhưng mãi mãi là khuôn vàng thước ngọc cho nếp sống đạo đức trong gia đình và ngoài xã hội của tất cả Phật tử chúng ta. Là Phật tử, chúng ta hãy sống và làm như lời Phật dạy. Chúng ta tất cả mọi người – Tăng Ni và Phật tử tại gia – phải chánh niệm tỉnh giác, phải luôn luôn tâm niệm rằng mình là đệ tử của đức Thế Tôn, và phải sống ứng xử như thế nào cho đừng có phụ lòng đức Thế Tôn. Trong kinh Giáo thọ Thi-ca-la-việt, đức Phật có nói về nhiều mối quan hệ xã hội và gia đình, trong đó có quan hệ giữa gia chủ và các vị Sa-môn, Bà-la-môn, tức là chúng ta nói hiện nay, quan hệ giữa Phật tử và Tu sĩ. Trong mối quan hệ đó, cả hai phía đều có bổn phận phải làm tròn, cả hai phía chứ không phải riêng phía Tăng sĩ, đều phải tôn trọng ranh giới mà luật nghi nhà Phật quy định.

Bộ áo vàng hay áo nâu này không làm nên người Tu sĩ, mà chỉ phân biệt người Tu sĩ với người đời. Làm nên Tu sĩ, chính là giới đức và trí tuệ. Gần gũi Tu sĩ là để gần gũi giới đức và trí tuệ, chứ không phải là để làm cho giới đức bị thoái chuyển và làm lu mờ trí tuệ. Gần gũi Tu sĩ là gần gũi học hỏi giới đức và trí tuệ của Tu sĩ, chứ không phải gần gũi con người Tu sĩ.

Chúng tôi hy vọng với đề tựa của bài Kinh này sẽ giúp cho quý vị hiểu biết thêm về ý nghĩ lễ bái sáu phương. Nhân ngày lễ Thành đạo và đón xuân đầu năm này, bên cạnh điện thờ đức Thế Tôn trang nghiêm, được đức Thế Tôn ân chứng là đúng pháp, đúng thời, và do đó sẽ được tất cả quý vị Tăng Ni Phật tử suy ngẫm và hưởng ứng.

Có vậy chúng ta mới xây dựng ngôi nhà Phật giáo của chúng ta trở thành một môi trường lý tưởng, trong ấy các Tu sĩ và các Phật tử luôn luôn cố gắng hành trì những lời dạy của đức Phật, đối xử với nhau đầy đủ trách nhiệm như đức Phật đã giảng dạy. Chúng tôi nghĩ rằng đó là cách thiết thực nhất, báo đáp ân đức trời biển của đức Từ phụ, và thiết thực đóng góp vào trách nhiệm lành mạnh hóa gia đình và xã hội trong thời đại chúng ta.

Sưu Tầm 6

Hòa Thượng Cua Và Tình Mẫu Tử

(Phatgiao.org.vn)

Lịch sử Phật giáo có truyện Mục Kiền Liên cứu mẹ nhưng ít ai biết ngay ở Việt Nam cũng có câu chuyện cảm động về tình mẫu tử của một vị Hòa thượng. Câu chuyện được nhắc tới là sự tích về việc Thiền sư Tông Diễn và mẹ ruột của ông.

 “Tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật”. Với tinh thần đó, đọc lại lịch sử Phật giáo Việt Nam, nhất là qua gương sống của chư vị thiền sư, các bậc xuất gia, ngoài công hạnh tu tập, hành đạo, chúng ta còn gặp nhiều câu chuyện hiếu đạo hết sức đặc biệt. Trong số đó, phải kể đến Thiền sư Tông Diễn.

Cách báo đáp thâm ân cha mẹ của Thiền sư Tông Diễn đã lưu mãi trong lòng người, vượt cả thời gian.

Ảnh: Nhuận Thường

Thiền sư Tông Diễn, hiệu Chơn Dung (1640-1711), một cao tăng Việt Nam đã cứu Phật pháp thoát khỏi ách nạn vào đời Hậu Lê, mà suýt chút nữa vua Lê Hy Tông đã làm cho mai một. Và vì thế, Sư đã trở thành bậc tôn sư của triều đình đương thời. Tầm vóc là vậy, nhưng Sư vẫn là “Hòa thượng cua” trong lòng nhân gian, luôn sống mãi với cái khoảnh khắc chóng vánh thuở thiếu thời.

Thuở trước ở miền Bắc nước ta, có một chú bé mồ côi cha sống với mẹ tại một miền quê hẻo lánh nọ. Năm chú bé được 12 tuổi, bà mẹ vẫn còn buôn bán tảo tần nuôi con. Một hôm, trước khi mang hàng ra chợ bán, bà mẹ trao cho con một giỏ cua đồng, bảo giã ra nấu canh làm cơm trưa. Chú bé y lời mẹ dặn mang giỏ cua ra làm. Bất ngờ, vừa giáng chày đập con cua đầu tiên, thấy con vật quýnh quáng, quờ quạng tay chân tìm đường sống, chú bé chợt động lòng bi mẫn, không nỡ tiếp tục, liền đem giỏ cua ra trút xuống ruộng.

Tan chợ, bà mẹ mang hàng về. Nhìn mâm cơm đạm bạc, bà ngạc nhiên hỏi:

– Thế, món canh cua đâu?

Chú bé ấp úng:

– Khi sáng con mang cua ra làm, thấy chúng nó khóc, con thương quá, nên. . . thả hết rồi mẹ ạ!

Vừa đói, vừa giận, bà mẹ vơ lấy cây đũa bếp, gõ cho con một cái, chú bé hoảng sợ co giò chạy ra kỏi nhà. Chú đi, đi mãi và xa mẹ từ đó.

Ba muơi năm đã qua, Bà mẹ đã già nua, vẫn bán hàng từng buổi chợ để mưu sinh. Một hôm đang buổi chợ, bà gặp một vị Tăng trung niên, ghé qua hàng hỏi thăm qua gia thế và đề nghị giúp đỡ bà bằng cách đem về chùa nuôi dưỡng. Bà cụ nhận lời và vào chùa làm công quả từ dạo đó.

Ngày tháng dần qua, đã đến lúc bà cụ từ giã cõi đời. Hòa thượng trụ trì, tức vị Tăng đã đề nghị mang bà vào chùa dạo trước, có việc phải đi bố giáo phương xa. Trước khi đi, Ngài dặn các môn đệ rằng nếu bà cụ mất thì chư Tăng cứ tẩn liệm nhưng đừng mai táng mà phải đợi Ngài về. Mọi người đều y lời.

Bà lão mất được một hôm thì Hòa thượng trở về. Ðứng trước quan tài mẹ Hòa thượng thắp hương khấn vái rằng:

Trong kinh Phật có dạy, một người con tu hành đạt đạo, cha mẹ sẽ được sinh thiên. Nếu lời nói ấy không ngoa thì xin cho chiếc quan tài này bay bổng lên và vỡ làm ba mảnh.

Hòa thượng vừa dứt lời, chiếc quan tài đựng thân xác bà cụ từ từ bay lên, bỗng hạ xuống vỡ làm ba mảnh. Trước sự kinh ngạc của toàn thể hội chúng, Hoà thượng bèn thuật lại thân thế của mình, chẳng ai đâu xa lạ mà chính là chú bé thả cua dạo nọ. Từ đó, người ta gọi Ngài là Hòa Thượng Cua, và cũng theo lời người ta kể ba mảnh vỡ của chiếc quan tài hiện vẫn còn tồi tại ở một ngôi chùa Bắc Việt để mọi người ghi nhớ câu chuyện lạ lùng và cảm động về Hoà Thượng Cua và vị thân mẫu sinh ra Ngài.

Đó là một trong nhiều câu chuyện trong hành trạng của vị thiền sư Việt Nam đạo phong, liên quan tới hiếu đạo của người xuất gia. Ngài cũng là người sống gần dân, được người dân yêu quý gọi bằng tên mộc mạc là Hòa thượng Cua.

Cách báo đáp thâm ân cha mẹ của Thiền sư Tông Diễn đã lưu mãi trong lòng người, vượt cả thời gian. Hình tượng và hạnh hiếu đó không chỉ lưu truyền trong dân gian mà đã được xây dựng thành hình tượng nghệ thuật, được chuyển thể qua các loại hình sân khấu, làm rung động lòng người nhiều thế hệ.

Trích theo Truyện cổ Phật giáo Việt Nam

X