Đức Phật Và Nhân Sinh

Chia sẻ giáo lý đạo Phật

Đức Phật Và Nhân Sinh

Chia sẻ giáo lý đạo Phật


LUẬT TỲ KHEO

Hoà Thượng Thích Trí Thủ

CHƯƠNG MỞ ĐẦU
TỰA THUYẾT GIỚI

1. Cúi đầu lễ chư Phật. 

Tôn Pháp, Tỳ kheo Tăng.

Nay nói pháp Tỳ ni,

Để chánh pháp trường tồn.

2. Giới như bể không bờ,

Như báu cầu không chán.

Muốn hộ tài sản Thánh,

Chúng họp nghe tôi nói.

3. Muốn trừ bốn tội khí, 

Và diệt tội Tăng tàn.

Ngăn ba mươi xả đọa,

Chúng họp nghe tôi nói.

4. Tỳ bà thi, Thi khí,

Tỳ xá Câu lưu tôn,

Câu na hàm Mâu ni,

Ca diếp, Thích ca văn,

5. Các đại đức Thế tôn,

Vì tôi dạy sự này, 

Tôi nay muốn nhắc rõ,

Các ngài thảy cùng nghe.

6. Ví như người què chân,

Không thể đi đâu được.

Người phá giới cũng vậy,

Không thể sanh trời, người.

7. Muốn được sanh lên trời,

Hoặc sanh vào cõi người,

Thường phải giữ chân giới,

Đừng để bị thương tổn.

8. Như xe vào đường hiểm, 

Lo hư chốt gãy trục,

Phá giới cũng như vậy.

Khi chết lòng sợ hãi.

9. Như người tự soi kiếng

Đẹp, xấu, sanh vui, buồn.

Thuyết giới cũng như vậy,

Vẹn, hỏng, sanh mừng, lo.

10. Như hai trận xáp chiến

Gan, nhát, có tiến, thối.

Thuyết giới cũng như vậy,

Tịnh, nhiễm sanh vui, sợ.

11. Thế gian vua là lớn,

Sông ngòi bể rộng hơn,

Các sao, trăng sáng nhất,

Các thánh, Phật trên hết.

12. Trong tất cả các luật,

Giới kinh là tối thượng.

Như Lai lập cấm giới,

Nửa tháng nói một lần.

13. Tăng họp chưa?

– Tăng đã họp.

Hòa hiệp không? 

– Hòa hiệp. 

Người chưa thọ cụ túc đã ra chưa?

– Đã ra.

Các tỳ kheo không đến có thuyết dục và thanh tịnh không?

(Nếu không thì đáp: Trong đây không có tỳ kheo thuyết dục và thanh tịnh). 

(Nếu có thì đáp: Có. Người thọ dục đứng ra giữa Tăng, lễ một lễ, quỳ chấp tay bạch:)

 Bạch Đại đức Tăng, tỳ kheo …. Tăng sự như pháp, có gởi dục và thanh tịnh cho tôi. Tôi có nhận lãnh sự gởi dục và thanh tịnh của vị ấy.

Thượng tọa nói: Thiện. 

Đáp: Nhĩ.

Thượng tọa hỏi tiếp:

 Có ai sai tỳ kheo ni đến thỉnh giáo giới?

(Có hay không có, tác bạch như được nói trong “Yết ma yếu chỉ”)

Tăng nay hoà hiệp để làm gì?

Thuyết giới kiết ma.

 Đại đức Tăng lắng nghe. Hôm nay là ngày bạch (hay hắc) nguyệt, ngày thứ 15 (hoặc 14), chúng tăng thuyết giới. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận hòa hiệp thuyết giới. Đây là lời tác bạch.

Thưa các Đại đức, nay tôi sẽ thuyết giới ba la đề mộc xoa, các tỳ kheo cùng tập họp tại một chỗ, hãy lắng nghe, suy niệm kỹ. Nếu ai tự biết có phạm, hãy tự phát lộ. Ai không phạm thì im lặng. Do sự im lặng, tôi biết các đại đức thanh tịnh. Như một người được kẻ khác hỏi riêng điều gì, thì như thực mà trả lời. Cũng vậy, tỳ kheo nào ở trong chúng sau khi đã ba lần hỏi, nhớ nghĩ mình có tội mà không phát lộ, vị ấy mắc tội cố ý vọng ngữ. Phật dạy cố ý vọng ngữ là pháp chướng đạo. Tỳ kheo nào nhớ nghĩ mình có tội, muốn cầu thanh tịnh, hãy tự phát lộ. Do phát lộ mà được an lạc.

Thưa các Đại đức, tôi đã thuyết xong tựa Giới kinh. Nay hỏi, các Đại đức trong đây có thanh tịnh không? (3 lần).

Các Đại đức trong đây thanh tịnh. Vì im lặng. Việc ấy tôi ghi nhận như vậy.

CHƯƠNG MỘT BA LA DI

Thưa các Đại đức, đây là bốn pháp Ba la di xuất từ Giới kinh, mỗi nửa tháng tụng một lần.

1. Tỳ kheo nào đã thọ trì học xứ và chấp nhận đời sống của tỳ kheo, chưa hoàn giới, giới sút kém nhưng không phát lộ, mà hành pháp dâm dục, cho đến cùng với loài súc sinh, tỳ kheo ấy là kẻ ba la di, không được sống chung.

2. Tỳ kheo nào, hoặc từ làng xóm hoặc từ rừng vắng lấy vật không cho với tâm trộm cắp, tùy theo sự lấy vật không cho ấy mà vua hay đại thần của vua hoặc bắt, hoặc giết, hoặc trói, hoặc đuổi khỏi nước, hoặc khiển trách: “Ngươi là kẻ trộm, ngươi là kẻ ngu, ngươi là kẻ không biết gì”, tỳ kheo ấy là kẻ ba la di, không được sống chung.

3. Tỳ kheo nào, cố ý tự tay mình làm dứt sinh mạng loài người, hoặc cầm dao đưa người khác dứt, hoặc khen ngợi cho chết, hoặc khích lệ cho chết, nói rằng: “Ôi, này bạn, ích gì đời sống xấu xa ấy. Bạn nên chết đi tốt hơn” Hoặc với tác ý như vậy, tư duy như vậy, bằng mọi phương tiện khen ngợi cho chết, khích lệ cho chết. Người kia nếu do thế mà chết, tỳ kheo ấy là kẻ ba la di, không được sống chung.

4. Tỳ kheo nào, thật sự không chứng ngộ mà tự mình tuyên bố rằng: “Tôi đã chứng đắc pháp cuả bậc thượng nhân, tôi đã chứng nhập thánh trí, chứng nhập pháp thù thắng. Tôi biết pháp này, tôi thấy pháp này”. Vị ấy vào lúc khác bị người cật vấn, hoặc không bị cật vấn, muốn cho được thanh tịnh nói như vầy: “Tôi thật sự không biết không thấy, nhưng đã nói là có biết có thấy. Đó là lời nói hư dối”. Ngoại trừ tăng thượng mạn, tỳ kheo ấy là kẻ ba la di, không được sống chung.

Các Đại đức, tôi đã tụng xong bốn pháp ba la di. Tỳ kheo nào phạm bất cứ một pháp nào không còn được sống chung với các tỳ kheo. Cũng như trước kia, sau khi phạm cũng vậy, tỳ kheo ấy là kẻ ba la di, không được sống chung.

Nay hỏi các Đại đức trong đây có thanh tịnh không? (3 lần)

Các Đại đức trong đây thanh tịnh. Vì im lặng. Việc ấy tôi ghi nhận như vậy.

 CHƯƠNG HAI
TĂNG GIÀ BÀ THI SA

Thưa các Đại đức, đây là mười ba pháp Tăng già bà thi sa, xuất từ Giới kinh, nửa tháng tụng một lần.

1. Tỳ kheo nào cố ý làm xuất tinh, trừ chiêm bao, tăng già bà thi sa.

2. Tỳ kheo nào, do dục tâm dồn nén, xúc chạm thân thể người nữ, hoặc nắm tay, hoặc nắm tóc, hoặc xúc chạm bất cứ một thân phần nào, tăng già bà thi sa.

3. Tỳ kheo nào do dục tâm dồn nén, nói lời thô tục về dâm dật với người nữ, tùy theo lời nói thô tục về dâm dật, tăng già bà thi sa.

4. Tỳ kheo nào, do dục tâm dồn nén, đối trước người nữ, tự khen thân mình “Này cô, tôi tu phạm hạnh, trì giới tinh tấn, tu tập pháp thiện, nên đem pháp dâm dục ấy cung phụng tôi, sự cung phụng ấy là bậc nhất”, tăng già bà thi sa.

5. Tỳ kheo nào, qua lại người này người kia làm mai mối, đem ý người nam nói với người nữ, đem ý người nữ nói với người nam, hoặc để thành việc vợ chồng, hoặc để cho tư thông dầu trong chốc lát, tăng già bà thi sa.

6. Tỳ kheo nào, tự khất cầu để cất thất, không có thí chủ mà tự mình cất lấy, cần phải làm đúng lượng. Trong đây đúng lượng là dài mười hai gang tay Phật, bên trong rộng bảy gang tay Phật. Phải mời các tỳ kheo đến chỉ định nơi chốn. Các tỳ kheo ấy cần chỉ định nơi chốn, là nơi không có nguy hiểm, nơi không bị bít lối. Nếu tỳ kheo, nơi có nguy hiểm, nơi bị bít lối , tự khất cầu để cất thất không có thí chủ mà tự mình cất lấy, không mời các tỳ kheo đến chỉ định nơi chốn, hoặc làm quá lượng, tăng già bà thi sa.

7. Tỳ kheo nào muốn cất tinh xá lớn, có thí chủ làm cho mình, cần phải mời các tỳ kheo khác đến chỉ định nơi chốn. Các tỳ kheo ấy cần chỉ định nơi chốn là nơi không có nguy hiểm, không bị bít lối. Nếu tỳ kheo, nơi có nguy hiểm, nơi bị bít lối, cất tịnh xá lớn, có thí chủ làm cho mình mà không mời các tỳ kheo chỉ định nơi chốn,tăng già bà thi sa.

8. Tỳ kheo nào, vì giận hờn, dựa lấy một phần tương tự của sự kiện khác, đối với tỳ kheo không phải là ba la di mà vu khống bằng pháp ba la di không căn cứ, muốn hủy hoại đời sống phạm hạnh của vị ấy. Về sau, dù bị cật vấn hay không bị cật vấn, sự việc ấy được biết là dựa lấy một phần tương tợ của sự kiện khác, tỳ kheo này tự nói rằng: “Tôi vì thù hận nên nói như vậy”. Tỳ kheo nào nói như vậy, tăng già bà thi sa.

10. Tỳ kheo nào, muốn phá hoại hòa hiệp tăng, tiến hành phá hòa hiệp tăng, chấp chặt pháp phá hòa hiệp tăng kiên trì không bỏ. Các tỳ kheo nên can gián tỳ kheo này rằng: “Đại đức, chớ phá hòa hiệp tăng, chớ tiến hành phá hòa hiệp tăng, chớ chấp chặt pháp phá hòa hiệp tăng kiên trì không bỏ. Đại đức nên cùng tăng hòa hiệp. Vì cùng tăng hòa hiệp, hoan hỷ không tranh chấp, đồng một thầy học, hòa hiệp như nước với sữa, thì ở trong Phật pháp có sự tăng ích, sống an lạc.” Tỳ kheo ấy sau khi được can gián như vậy, vẫn kiên trì không bỏ, các tỳ kheo nên can gián ba lần cho bỏ sự ấy. Cho đến ba lần can gián, bỏ thì tốt nếu không bỏ, tăng già bà thi sa.

11. Hoặc có tỳ kheo có bè đảng, từ một, hai, hoặc ba cho đến vô số tỳ kheo. Các tỳ kheo bè đảng ấy nói với chúng tỳ kheo rằng: “Đại đức, chớ cản trở tỳ kheo ấy. Tỳ kheo ấy là tỳ kheo nói đúng pháp. Tỳ kheo ấy là tỳ kheo nói đúng luật. Những điều tỳ kheo ấy nói, chúng tôi ưa thích. Những điều tỳ kheo ấy nói, chúng tôi chấp nhận”. Chúng tỳ kheo nên can gián các tỳ kheo bè đảng đó rằng: “Đại đức chớ nói như vầy: “Tỳ kheo ấy là tỳ kheo nói đúng pháp.

Tỳ kheo ấy là tỳ kheo nói đúng luật. Những điều tỳ kheo ấy nói, chúng tôi ưa thích. Những điều tỳ kheo ấy nói, chúng tôi chấp nhận”. Nhưng thật ra, tỳ kheo ấy là tỳ kheo nói phi pháp, là tỳ kheo nói phi luật. Đại đức, chớ phá hoại hòa hiệp tăng. Các ngài nên hoan hỷ hòa hiệp tăng. Đại đức cùng tăng hòa hiệp, hoan hỷ không tranh chấp, đồng một thầy học, hòa hiệp như nước với sữa, ở trong Phật pháp mới có sự tăng ích, sống an lạc. Các tỳ kheo bè đảng đó được can gián như vậy mà không bỏ, chúng tỳ kheo nên ba lần can gián cho bỏ sự ấy. Cho đến ba lần can gián, bỏ thì tốt, nếu không bỏ, tăng già bà thi sa.

12. Tỳ kheo nào sống nương tựa nơi xóm làng hay thành ấp, mà làm hoen ố nhà người , có hành vi xấu , sự làm hoen ố nhà người mọi người đều thấy đều nghe, hành vi xấu mọi người đều thấy đều nghe. Các tỳ kheo nên nói với tỳ kheo này rằng: “Đại đức là người làm hoen ố nhà người, là người có hành vi xấu, sự làm hoen ố nhà người mọi người đều thấy đều nghe. Đại đức, ngài làm hoen ố nhà người, có hành vi xấu, nay nên xa lánh xóm làng này, không nên sống ở đây nữa”.

Tỳ kheo này nói với các tỳ kheo rằng: “Đại đức, các tỳ kheo có tư vị, có thù nghịch, có sợ hãi, có si mê. Vì có tỳ kheo đồng tội như vậy mà có người bị đuổi, có người không bị đuổi”. Các tỳ kheo nên trả lời tỳ kheo ấy rằng: “Đại đức chớ nói rằng: Các tỳ kheo có tư vị, có thù nghịch, có sợ hãi, có si mê. Vì có tỳ kheo đồng tội như vậy mà có người bị đuổi, có người không bị đuổi. Nhưng sự thật các tỳ kheo không có tư vị, không có thù nghịch, không có sợ hãi, không có si mê.

Mà vì Đại đức là người làm hoen ố nhà người có hành vi xấu. Sự làm hoen ố nhà người mọi người đều thấy đều nghe, hành vi xấu mọi người đều thấy đều nghe. Tỳ kheo ấy được can gián như vậy mà kiên trì không bỏ. Các tỳ kheo nên can gián ba lần cho bỏ sự ấy. Cho đến ba lần can gián, bỏ thì tốt, nếu không bỏ, tăng già bà thi sa.

13. Tỳ kheo nào, có tánh ngoan cố không nghe người khuyên, đã được các tỳ kheo khuyên can như pháp những điều trong học giới, tự thân không nhận lời can gián, lại nói “Các Đại đức chớ nói với tôi điều gì hoặc tốt hoặc xấu; tôi cũng không nói với các Đại đức điều gì hoặc tốt hoặc xấu. Các Đại đức, hãy thôi, chớ can gián tôi. Các tỳ kheo can gián các tỳ kheo ấy rằng: “Đại đức chớ tự thân không nhận lời can gián, Đại đức hãy tự thân nhận lời can gián. Đại đức như pháp can gián các tỳ kheo. Các tỳ kheo cũng như pháp can gián Đại đức. Như vậy, chúng đệ tử Phật được tăng ích, can gián lẫn nhau, phát lộ với nhau.” Tỳ kheo ấy được can gián như vậy, kiên trì không bỏ. Các tỳ kheo nên can gián ba lần cho bỏ sự ấy. Cho đến ba lần can gián, bỏ thì tốt, nếu không bỏ, tăng già bà thi sa.

Các Đại đức, tôi đã tụng xong mười ba pháp tăng già bà thi sa. Chín giới đầu lần đầu làm tức thị phạm, bốn giới sau cho đến ba lần can gián. Tỳ kheo nào phạm bất cứ một pháp nào, biết mà che giấu, cần phải cưỡng bức cho ba lị bà sa. Hành ba lị bà sa xong, cho thêm sáu đêm ma na đỏa. Hành ma na đỏa xong, còn phải xuất tội. Cần phải giữa tăng gồm hai mươi vị để xuất tội của tỳ kheo ấy.Nếu thiếu một vị, không đủ chúng hai mươi người mà xuất tội, thì tội của tỳ kheo ấy không được trừ, các tỳ kheo bị khiển trách, như thế là hợp thức.

Nay hỏi, các Đại đức trong đây thanh tịnh không? (3 lần).

Các Đại đức trong đây thanh tịnh. Vì im lặng. Việc ấy tôi ghi nhận như vậy.

CHƯƠNG BA
PHÁP BẤT ĐỊNH

Thưa các Đại đức, đây là hai pháp Bất định xuất từ Giới kinh, nửa tháng tụng một lần.

1. Tỳ kheo nào, cùng với một người nữ một mình ngồi tại chỗ khuất, chỗ kín, chỗ có thể hành dâm, nói lời phi pháp. Có vị Ưu bà di trụ tín nói một pháp nào trong ba pháp, hoặc ba la di, hoặc tăng già bà thi sa, hoặc ba dật đề, và tỳ kheo ngồi ấy tự xác nhận rằng “Tôi phạm tội ấy”, vậy cần xử trị một trong ba pháp, hoặc ba la di, hoặc tăng già bà thi sa, hoặc ba dật đề, đúng như lời vị Ưu bà di trụ tín. Cần phải như pháp xử trị tỳ kheo ấy. Đây gọi là pháp bất định.

2. Tỳ kheo nào cùng với một người nữ ngồi tại chỗ trống, chỗ không thể hành dâm, nói lời thô tục. Có vị Ưu bà di trụ tín nói một trong hai pháp hoặc tăng già bà thi sa, hoặc ba dật đề, và tỳ kheo ấy ngồi tự xác nhận: “Tôi phạm tội ấy”, vậy cần xử trị một trong hai pháp hoặc tăng già bà thi sa, hoặc ba dật đề đúng như lời vị Ưu bà di trụ tín. Cần phải như pháp xử trị tỳ kheo ấy. Đây gọi là pháp bất định.

Các Đại đức, tôi đã tụng hai pháp bất định.

Nay hỏi, các Đại đức trong đây có thanh tịnh không? (3 lần)

Các Đại đức trong đây thanh tịnh, vì im lặng. Việc ấy tôi ghi nhận như vậy.

CHƯƠNG BỐN
NI TÁT KỲ BA DẬT ĐỀ 

Thưa các Đại đức, đây là ba mươi pháp Ni tát kỳ ba dật đề xuất từ Giới kinh, mỗi nửa tháng tụng một lần.

1. Tỳ kheo nào, y đã xong, ca thi na y đã xả, chứa y dư trong mười ngày, không tịnh thí được phép cất, nếu quá mười ngày, ni tát kỳ ba dật đề.

2. Tỳ kheo nào, y đã xong, ca thi na y đã xả, lìa một trong ba y ngủ đêm chỗ khác, trừ tăng yết ma, ni tát kỳ ba dật đề.

3. Tỳ kheo nào, y đã xong, ca thi na y đã xả, nếu tỳ kheo được vải phi thời, cần thì nhận, nhận xong nhanh chóng may thành y, đủ thì tốt, không đủ thì được phép cất một tháng vì đợi cho đủ, nếu cất quá hạn, ni tát kỳ ba dật đề.

4. Tỳ kheo nào, thọ nhận y từ tỳ kheo ni không phải thân quyến, trừ đổi chác, ni tát kỳ ba dật đề.

5. Tỳ kheo nào, khiến tỳ kheo ni không phải thân quyến giặt y cũ, hoặc nhuộm, hoặc đập, ni tát kỳ ba dật đề.

6. Tỳ kheo nào, xin y từ cư sĩ hay vợ cư sĩ không phải thân quyến, ni tát kỳ ba dật đề, trừ trường hợp đặc biệt. Trường hợp đặc biệt là nếu tỳ kheo y bị cướp, y bị mất, y bị cháy, y bị nước cuốn. Đây gọi là trường hợp đặc biệt.

7. Tỳ kheo nào, y bị cướp, y bị mất, y bị cháy, y bị nước cuốn, nếu có cư sĩ hay vợ cư sĩ không phải thân quyến đem cho nhiều y yêu cầu tùy ý nhận, tỳ kheo ấy nên biết đủ mà nhận y, nếu nhận quá, ni tát kỳ ba dật đề.

8. Tỳ kheo nào, có cư sĩ hay vợ cư sĩ không phải thân quyến vì tỳ kheo để dành tiền sắm y, nghĩ rằng: “Mua y như thế cho tỳ kheo có tên như thế”. Tỳ kheo ấy, trước không được yêu cầu tùy ý mà đi đến nhà cư sĩ, nói như vầy: “Lành thay, cư sĩ, nên vì tôi mua y như vậy, như vậy cho tôi. Vì muốn đẹp, nếu nhận được y, ni tát kỳ ba dật đề.

9. Tỳ kheo nào, có hai cư sĩ hay vợ cư sĩ để dành tiền sắm y cho tỳ kheo, đều nghĩ rằng: “Mang tiền sắm y như thế để mua y như thế, cho tỳ kheo có tên như thế. Tỳ kheo ấy, trước chưa nhận được sự yêu cầu tùy ý của hai nhà cư sĩ, mà đi đến hai nhà cư sĩ, nói như vầy: “Lành thay dành số tiền may y như thế cho tôi, hãy chung lại làm một y, vì muốn đẹp, nếu nhận được y, ni tát tát kỳ ba dật đề.

10. Tỳ kheo nào, vua hoặc đại thần, hoặc bà la môn hoặc cư sĩ hay vợ cư sĩ, sai sứ mang tiền đến tỳ kheo nói rằng: “Cần số tiền như thế sắm y cho tỳ kheo có tên như thế”. Người ấy đến chỗ tỳ kheo nói với tỳ kheo: “Đại đức, nay tiền sắm y này được gởi đến ngài, ngài hãy nhận”. Tỳ kheo ấy có thể nói với sứ giả này rằng: “Tôi không được phép nhận tiền may y này. Khi nào cần y hợp thời và thanh tịnh, tôi sẽ nhận”. Người sứ này có thể hỏi tỳ kheo rằng “Đại đức có người chấp sự không?” Tỳ kheo cần y có thể chỉ một tịnh nhân tăng già lam, hoặc một ưu bà tắc, nói rằng: “Đó là người chấp sự của tỳ kheo, thường chấp sự cho các tỳ kheo”.

Bấy giờ người ấy tự đi đến chỗ người chấp sự trao tiền sắm y rồi trở lại chỗ tỳ kheo nói như vầy: “Đại đức, tôi đã trao tiền sắm y cho người chấp sự mà ngài chỉ. Đại đức khi nào cần, hãy đến người ấy sẽ được y”. Tỳ kheo cần y sẽ đi đến chỗ người chấp sự, hoặc hai hoặc ba lần khiến cho nhớ lại bằng cách nói rằng: “Tôi cần y”. Hoặc hai hoặc ba lần khiến nhớ lại, nếu được y thì tốt, bằng không được y thì lần thứ tư, thứ năm, lần thứ sáu, đứng im lặng trước người ấy, được y thì tốt, bằng không được y mà cố cầu quá số lần ấy, nếu được y, ni tát kỳ ba dật đề. Nếu không được y, tự mình hoặc sai người đến chỗ đưa tiền sắm y nói rằng: “Ngài trước sai người cầm tiền sắm y cho tỳ kheo tên như vậy. Tỳ kheo ấy cuối cùng không được y. Ngài hãy lấy lại, đừng để mất”. Như vậy là hợp thức.

11. Tỳ kheo nào trộm tơ tằm sống làm ngọa cụ mới, ni tát kỳ ba dật đề.

12. Tỳ kheo nào, làm ngọa cụ mới bằng lông dê toàn đen, ni tát kỳ ba dật đề.

13. Tỳ kheo nào, làm ngọa cụ mới phải dùng hai phần lông dê toàn đen, phần thứ ba trắng, phần thứ tư xám. Nếu tỳ kheo không dùng hai phần đen, thứ ba trắng, phần thứ tư xám làm ngọa cụ mới, ni tát kỳ ba dật đề.

14. Tỳ kheo nào, làm ngọa cụ mới phải trì sáu năm; chưa đủ sáu năm, không xả mà làm thêm cái mới, trừ Tăng yết ma, ni tát kỳ ba dật đề.

15. Tỳ kheo nào, làm tọa cụ mới, phải lấy một miếng của cái cũ vuông vức một gang tay đắp lên cái mới để cho hoại sắc. Nếu tỳ kheo làm tọa cụ mới không lấy một miếng của cái cũ vuông vức một gang tay đắp lên cái mới để cho hoại sắc, ni tát kỳ ba dật đề.

16. Tỳ kheo nào, khi đi đường gặp lông dê, nếu cần dùng, không có người cầm, được phép tự cầm đi cho đến ba do tuần. Nếu không có người cầm, tự mình cầm đi quá ba do tuần, ni tát kỳ ba dật đề.

17. Tỳ kheo nào, sai tỳ kheo ni không phải thân quyến giặt, nhuộm hay chải lông dê, ni tát kỳ ba dật đề.

18. Tỳ kheo nào, tự tay cầm tiền, hoặc vàng bạc, hoặc người cầm, hoặc để xuống đất mà nhận, ni tát kỳ ba dật đề.

19. Tỳ kheo nào, đổi chác bảo vật dưới mọi hình thức, ni tát kỳ ba dật đề.

20. Tỳ kheo nào, buôn bán dưới mọi hình thức, ni tát kỳ ba dật đề.

21. Tỳ kheo nào, chứa bát dư không tịnh thí, được phép chứa trong hạn mười ngày, quá hạn, ni tát kỳ ba dật đề.

22. Tỳ kheo nào, có bát rạn nứt dưới năm chỗ không chảy rỉ lại tìm xin bát mới, vì muốn đẹp, ni tát kỳ ba dật đề. Tỳ kheo ấy phải đến giữa Tăng mà xả. Tăng lần lượt đổi, lấy bát xấu nhất đưa cho, khiến trì cho đến vỡ. Như vậy là hợp thức.

23. Tỳ kheo nào, tự mình xin chỉ sợi, khiến thợ dệt không phải thân quyến dệt làm ba y, ni tát kỳ ba dật đề.

24. Tỳ kheo nào, có cư sĩ hay vợ cư sĩ khiến thợ dệt vì tỳ kheo dệt làm ba y. Tỳ kheo kia, trước chưa được yêu cầu tùy ý, liền đến chỗ thợ dệt nói rằng: “Y này vốn làm cho tôi. Hãy dệt thật khéo, khiến cho rộng lớn bền chắc, tôi sẽ cho người ít nhiều tiền”. Tỳ kheo ấy cho tiền, dù chỉ đáng giá bằng một bữa ăn, nếu được y, ni tát kỳ ba dật đề.

25. Tỳ kheo nào, trước cho người khác y, sau vì giận hờn, tự mình đoạt hay sai người đoạt lấy, nói rằng: “Hãy trả lại tôi, tôi không cho ngài”. Nếu tỳ kheo kia trả y, tỳ kheo này nhận lấy, ni tát kỳ ba dật đề.

26. Tỳ kheo nào có bệnh, các loại thuốc dài hạn như tô, dầu, sanh tô, mật ong, thạch mật, trong thời hạn bảy ngày được phép dùng, nếu quá bảy ngày còn dùng, ni tát kỳ ba dật đề.

27. Tỳ kheo nào, xuân còn một tháng, có thể xin áo tắm mưa, còn lại nửa tháng, có thể dùng tắm. Nếu tỳ kheo quá trước một tháng xin áo tắm mưa, quá trước nửa tháng dùng tắm, ni tát kỳ ba dật đề.

28. Tỳ kheo nào, còn mười ngày nữa mới hết ba tháng hạ, các tỳ kheo được y cấp thí, tỳ kheo biết đó là y cấp thí, có thể thọ nhận, thọ xong, có thể chứa cho đến thời của y, nếu chứa quá hạn, ni tát kỳ ba dật đề.

29. Tỳ kheo nào, hạ ba tháng đã hết, một tháng hậu ca đề cũng mãn, sống tại a lan nhã, ở chỗ có nghi ngờ, có sợ hãi, tỳ kheo sống tại trú xứ như thế, trong ba y, có thể lưu một y để lại trong nhà dân, các tỳ kheo có nhân duyên được lìa y, ngủ cho đến sáu đêm, nếu quá, ni tát kỳ ba dật đề.

30. Tỳ kheo nào, biết đó là một vật thuộc Tăng mà tự xoay về cho mình, ni tát kỳ ba dật đề.

Nay hỏi các Đại đức trong đây có thanh tịnh không? (3 lần)

Các Đại đức trong đây thanh tịnh. Vì im lặng. Việc ấy tôi ghi nhận như vậy.

CHƯƠNG NĂM
BA DẬT ĐỀ 

Thưa các Đại đức, đây là chín mươi pháp Ba dật đề, xuất từ Giới kinh, nửa tháng tụng một lần.

1. Tỳ kheo nào, cố ý nói dối, ba dật đề.

2. Tỳ kheo nào, nói lời nhục mạ bằng các chủng loại, ba dật đề.

3. Tỳ kheo nào, nói hai lưỡi, ba dật đề.

4. Tỳ kheo nào, ngủ cùng nhà với phụ nữ, ba dật đề.

5. Tỳ kheo nào, ngủ cùng phòng với người chưa thọ đại giới quá hai đêm, ba dật đề.

6. Tỳ kheo nào, cùng tụng đọc với người chưa thọ đại giới, ba dật đề.

7. Tỳ kheo nào, biết vị khác có tội thô ác, đem nói với người chưa thọ đại giới, trừ Tăng kiết ma, ba dật đề.

8. Tỳ kheo nào, nói pháp thượng nhân với người thọ cụ túc giới rằng: “Tôi thấy thế, tôi biết thế”, nếu lời ấy là sự thật, ba dật đề.

9. Tỳ kheo nào, thuyết pháp cho một người nữ quá năm, sáu lần (lời), trừ phi có mặt người nam có trí, ba dật đề.

10. Tỳ kheo nào, tự tay đào đất hoặc bảo người đào, ba dật đề.

11. Tỳ kheo nào, phá hoại cây cỏ, ba dật đề.

12. Tỳ kheo nào, cố ý nói quanh làm phiền Tăng, ba dật đề.

13. Tỳ kheo nào, biếm nhẻ (tri sự tăng), ba dật đề.

14. Tỳ kheo nào, lấy giường nằm, ghế ngồi hoặc ngọa cụ, đệm ngồi của Tăng bày ra chỗ đất trống, hoặc khiến người bày, rồi bỏ đi không tự mình cất, không khiến người cất, ba dật đề.

15. Tỳ kheo nào, ở trong phòng của Tăng, trải ngọa cụ của Tăng, tự mình trải hay khiến người trải, hoặc ngồi hoặc nằm, khi đi, không tự mình cất, không khiến người cất, ba dật đề.

16. Tỳ kheo nào, biết là trú xứ của tỳ kheo đến trước, mình đến sau, chen vào giữa trải ngọa cụ ngủ, với ý nghĩ rằng: “Vị ấy nếu hiềm chật sẽ tự lánh ta mà bỏ đi” làm với nhân duyên này chứ không gì khác, không phải oai nghi khác, ba dật đề.

17. Tỳ kheo nào, giận hờn, không ưa tỳ kheo khác, tự mình lôi kéo ra khỏi tăng phòng, hay khiến người khác lôi ra, ba dật đề.

18. Tỳ kheo nào, hoặc tại tăng phòng, hoặc trên tầng gác, nằm hay ngồi trên giường ghế bằng chân lắp, ba dật đề.

19. Tỳ kheo nào, biết nước có trùng, hoặc tự mình tưới lên cỏ trơn đất bùn, hoặc khiến người tưới, ba dật đề.

20. Tỳ kheo nào, làm tịnh xá lớn, có cửa cánh cửa sổ và các thức trang sức khác, chỉ bảo người lợp tranh chừng hai ba lớp, nếu quá, ba dật đề.

21. Tỳ kheo nào, không được tăng sai mà giáo thọ tỳ kheo ni, ba dật đề.

22. Tỳ kheo nào, được tăng sai, nhưng giáo thọ tỳ kheo ni cho đến mặt trời lặn, ba dật đề.

23. Tỳ kheo nào, nói với các tỳ kheo như vầy: “Tỳ kheo vì sự ăn uống mà giáo thọ tỳ kheo ni”, ba dật đề.

24. Tỳ kheo nào, cho y tỳ kheo ni không phải thân quyến, trừ trao đổi, ba dật đề.

25. Tỳ kheo nào, may y cho tỳ kheo ni không phải thân quyến, ba dật đề.

26. Tỳ kheo nào, ngồi với tỳ kheo ni ở chỗ kín đáo, ba dật đề.

27. Tỳ kheo nào, cùng với tỳ kheo ni đi chung một đường, từ một xóm đến một xóm, trừ trường hợp đặc biệt, ba dật đề. Trường hợp đặc biệt là cùng đi với khách buôn, hoặc nghi ngờ có nguy hiểm. Đây gọi là trường hợp đặc biệt.

28. Tỳ kheo nào, cùng với tỳ kheo ni hẹn đi chung một thuyền, đi ngược dòng hay xuôi dòng, trừ qua đò ngang, ba dật đề. 

29. Tỳ kheo nào, ăn đồ ăn mà biết là có được do sự tán thán, giáo hóa của tỳ kheo ni, trừ đàn việt có ý trước, ba dật đề.

30. Tỳ kheo nào, cùng với phụ nữ hẹn cùng đi chung một đường, dù chỉ trong quãng xóm, ba dật đề.

31. Tỳ kheo nào, tại phước xá cúng một bữa, tỳ kheo không bịnh chỉ nên ăn một lần, nếu thọ nhận quá, ba dật đề.

32. Tỳ kheo nào, ăn nhiều lần, trừ các trường hợp khác, ba dật đề.Các trường hợp khác là khi bệnh, khi cúng y. Đây gọi là trường hợp khác.

33. Tỳ kheo nào, ăn biệt chúng, trừ các trường hợp khác, ba dật đề. Các trường hợp khác là khi bệnh, khi làm y, khi cúng y, khi đi đường, khi đi thuyền, khi đại chúng tập hội, khi sa môn mới ăn. Đây gọi là các trường hợp khác.

34. Tỳ kheo nào, đi đến nhà bạch y, họ dâng cho tỳ kheo bánh, hoặc bột, hoặc cơm, nếu cần dùng, nên thọ hai hoặc ba bát, trở về trong tăng già lam nên chia cho các tỳ kheo khác. Nếu tỳ kheo không bịnh, thọ lãnh quá hai ba bát, mang về trong tăng già lam, không chia cho các tỳ kheo khác, ba dật đề.

35. Tỳ kheo nào, ăn đã đủ, hoặc khi được mời thêm, không làm pháp dư thực mà ăn nữa, ba dật đề.

36. Tỳ kheo nào, biết tỳ kheo kia ăn đã đủ, nếu được mời thêm, không làm phép dư thực mà ân cần mời vị kia ăn, nói rằng: “Trưởng lão, hãy dùng món ăn này” chỉ với mục đích này chứ không gì khác, tức là muốn người khác phạm, ba dật đề.

37. Tỳ kheo nào, ăn phi thời, ba dật đề.

38. Tỳ kheo nào, ăn thức ăn cách đêm, ba dật đề.

39. Tỳ kheo nào, đưa vào miệng thức ăn hoặc thuốc không được mời, trừ nước và tăm, ba dật đề.

40. Các thứ ẩm thực mỹ vị như sữa, lạc, cá và thịt, tỳ kheo nào không bịnh mà xin những thứ ẩm thực mỹ vị ấy cho mình, ba dật đề.

41. Tỳ kheo nào, tự tay cho thức ăn đến nam ngoại đạo, nữ ngoại đạo, ba dật đề.

42. Tỳ kheo nào, trước đã nhận lời mời, nhưng trước hay sau bữa ăn đi đến nhà khác mà không báo cho tỳ kheo khác biết, trừ trường hợp đặc biệt, ba dật đề. Trường hợp đặc biệt là khi bịnh, thời gian làm y, thời gian thí y. Đây là trường hợp đặc biệt.

43. Tỳ kheo nào, trong nhà mình thọ thực có vật báu mà cố nén ngồi, ba dật đề.

44. Tỳ kheo nào, trong nhà mình thọ thực có vật báu mà ngồi ở chỗ kín, ba dật đề.

45. Tỳ kheo nào, một mình ngồi với một người nữ tại chỗ trống, ba dật đề.

46. Tỳ kheo nào, nói với tỳ kheo khác như vầy: “Đại đức hãy cùng tôi đi đến xóm ấy, tôi sẽ cho thức ăn đến ngài”. Tỳ kheo ấy rốt lại không khiến cho thức ăn đến tỳ kheo kia, lại nói rằng: “Ngài hãy đi chỗ khác. Tôi không thích nói chuyện hay ngồi một chỗ với ngài. Tôi thích ngồi một mình, nói chuyện một mình” chỉ với mục đích ấy chứ không gì khác là cố tình đuổi đi, ba dật đề.

47. Tỳ kheo được thỉnh cầu thọ nhận thuốc bốn tháng. Tỳ kheo không bệnh có thể nhận, nếu quá hạn mà nhận, trừ có sự thỉnh thường xuyên, thỉnh thêm nữa, thỉnh phần riêng, thỉnh suốt đời, ba dật đề.

48. Tỳ kheo nào, đi xem quân đội bố trận, ba dật đề, trừ có nhân duyên hợp thời.

49. Tỳ kheo nào, có nhân duyên được phép đến trong quân đội ngủ lại hai đêm, ba đêm, nếu quá, ba dật đề.

50. Tỳ kheo nào, ở trong quân đội hai đêm, ba đêm, hoặc đi xem quân đội bố trận, chiến đấu, hoặc xem thế lực quân đội, quân voi, quân ngựa (diễn tập), ba dật đề.

51. Tỳ kheo nào, uống rượu, ba dật đề. 

52. Tỳ kheo nào, đùa giỡn trong nước, ba dật đề. 

53. Tỳ kheo nào, lấy ngón tay thọc léc người khác, ba dật đề. 

54. Tỳ kheo nào, không nhận lời can gián, ba dật đề. 

55. Tỳ kheo nào, dọa tỳ kheo khác, ba dật đề. 

56. Tỳ kheo nào, nửa tháng tắm một lần, tỳ kheo không bịnh nên thọ, nếu quá, trừ trường hợp đặc biệt, ba dật đề. Trường hợp đặc biệt là thời tiết nóng, khi bịnh, khi lao tác, khi gió và mưa, khi đi đường. Đó là các trường hợp đặc biệt.

57. Tỳ kheo không bịnh, để sưởi ấm, tự mình đốt lửa tại đất trống, hoặc bảo người đốt, trừ có nhân duyên, ba dật đề. 

58. Tỳ kheo nào, giấu y bát, tọa cụ, ống đựng kim của tỳ kheo khác, tự mình giấu hoặc bảo người giấu, dù chỉ giỡn chơi, ba dật đề. 

59. Tỳ kheo nào, đã cho y cho tỳ kheo, tỳ kheo ni, thức xoa ma na, sa di, sa di ni, về sau không nói với chủ, lấy lại mà mặc, ba dật đề. 

60. Tỳ kheo nào, được y mới tùy ý dùng một trong ba màu hoặc là xanh, hoặc đen, hoặc mộc lan làm cho hoại sắc, nếu không làm hoại sắc mà mặc nguyên mới, ba dật đề. 

61. Tỳ kheo nào, cố ý giết chết mạng sống súc sanh, ba dật đề. 

62. Tỳ kheo nào, biết nước có trùng mà uống hoặc dùng, ba dật đề. 

63. Tỳ kheo nào, cố ý gây phiền muộn cho các tỳ kheo khác, khiến cho không vui dù chỉ trong chốc lát, ba dật đề. 

64. Tỳ kheo nào, biết tỳ kheo khác phạm thô tội mà cố ý che giấu, ba dật đề. 

65. Người tuổi đủ hai mươi nên cho thọ đại giới, nếu tỳ kheo biết người chưa đủ tuổi hai mươi mà cho thọ đại giới, người ấy không đắc giới, tỳ kheo ấy đáng bị khiển trách, vì ngu si, ba dật đề. 

66. Tỳ kheo nào, biết tránh sự đã được như pháp giải quyết rồi, sau đó lại khơi dậy, ba dật đề. 

67. Tỳ kheo nào, biết đó là đồng bọn giặc cướp, mà giao hẹn cùng đi chung một đường, dù chỉ trong khoảng một xóm đến một xóm, ba dật đề. 

68. Tỳ kheo nào, nói như vầy: “Tôi biết rằng, theo pháp mà Phật dạy, hành dâm dục không phải là pháp chướng đạo”. Các tỳ kheo kia nên can gián tỳ kheo này rằng: “Đại đức chớ nói như vầy, chớ xuyên tạc Thế Tôn, xuyên tạc Thế Tôn là không tốt. Thế Tôn không nói như vậy. Thế Tôn bằng vô số phương tiện nói rằng phạm dâm dục là pháp chướng đạo”. Khi các tỳ kheo can gián, tỳ kheo này vẫn kiên trì không bỏ. Các tỳ kheo can gián đến ba lần cho bỏ sự ấy. Sau ba lần can gián, bỏ thì tốt, nếu không bỏ, ba dật đề. 

69. Tỳ kheo nào, biết người nói lời như thế chưa được tác pháp (giải), tà kiến như thế chưa bỏ, lại cung cấp nhu yếu, cùng kiết ma, cùng ngủ, cùng nói chuyện, ba dật đề. 

70. Tỳ kheo nào, biết sa di nói như vầy: “Tôi nghe pháp tử đức Phật nói rằng: hành dâm dục không phải là pháp chướng đạo”. Các tỳ kheo nên can gián sa di ấy như vầy: “Người chớ xuyên tạc Thế tôn, xuyên tạc Thế tôn là không tốt. Thế tôn không nói như vậy. Này sa di, Thế tôn bằng vô số phương tiện nói rằng hành dâm là pháp chướng đạo” Khi các tỳ kheo can gián sa di ấy, mà kiên trì không bỏ, thì các tỳ kheo phải can gián ba lần cho bỏ sự ấy.

Cho đến ba lần can gián mà bỏ thì tốt, nếu không bỏ, các tỳ kheo nên nói với sa di ấy rằng: “Ngươi từ nay trở đi hãy đi khỏi đây, không được nói rằng đức Phật là Thế tôn của tôi. Không được đi theo các tỳ kheo khác. Như các sa di được phép ngủ hai, ba đêm cùng với các tỳ kheo, nhưng ngươi nay không có sự kiện ấy. Ngươi hãy ra khỏi đây, hãy đi khuất chỗ này, không được sống ở đây nữa”. Nếu tỳ kheo biết sa di đã bị đuổi giữa chúng như vậy, mà dụ đem về nuôi dưỡng, cùng ngủ chung, ba dật đề. 

71. Tỳ kheo nào, khi được các tỳ kheo như pháp can gián lại nói rằng: “Thưa Đại đức, tôi nay không học điều giới này, trừ khi tôi hỏi vị tỳ kheo trì luật có trí khác”, ba dật đề. Nếu muốn biết, muốn học thì nên hỏi.

72. Tỳ kheo nào, khi tụng giới nói như vầy: “Đại đức, nói những giới vụn vặt ấy có ích lợi gì? Khi nói giới ấy chỉ làm cho người ta phiền muộn, xấu hổ, hoài nghi, vì coi nhẹ và chê bai giới, ba dật đề. 

73. Tỳ kheo nào, khi tụng giới nói như vầy: “Nay tôi mới biết pháp này ghi trong giới kinh, mỗi nửa tháng tụng một lần, xuất từ giới kinh”. Các tỳ kheo khác biết tỳ kheo này đã từng ngồi dự tụng giới hoặc hai hoặc ba lần, huống nữa là nhiều lần. Tỳ kheo ấy vì không biết nên không tránh khỏi tội, nếu có phạm tội, thì phải được xử trị như pháp, rồi lại chồng thêm tội không hiểu biết, rằng : “Trưởng lão, thật không ích lợi gì cho ngài, không có sở đắc tốt đẹp gì cho ngài, vì trong khi tụng giới ngài không dụng tâm, không nhất niệm lắng tai nghe pháp”, vị ấy vì không hiểu biết, ba dật đề. 

74. Tỳ kheo nào, sau khi đã cùng chung yết ma lại nói như vầy: “Các tỳ kheo theo chỗ thân cận mà cho vật của tăng”, ba dật đề. 

75. Tỳ kheo nào, khi chúng tăng giải quyết sự việc chưa xong, không dữ dục mà đứng dậy bỏ đi, ba dật đề. 

76. Tỳ kheo nào, đã dữ dục, sau đó tỏ sự bất bình, ba dật đề.

77. Tỳ kheo nào, sau khi hai tỳ kheo tranh cãi nhau, nghe lời người này đem nói với người kia, ba dật đề.

78. Tỳ kheo nào, vì giận hờn, không hoan hỷ, đánh tỳ kheo khác, ba dật đề.

79. Tỳ kheo nào, vì giận hờn, không hoan hỷ, hoa tay đánh tỳ kheo khác, ba dật đề.

80. Tỳ kheo nào, vì giận hờn, vu khống tỳ kheo khác bằng pháp tăng già ba thi sa không căn cứ, ba dật đề.

81. Tỳ kheo nào, khi nhà vua quán đảnh thuộc dòng Sát đế lị chưa ra khỏi (chỗ ngủ), khi bảo vật chưa được thu cất mà vào cung vua, bước qua khỏi ngạch cửa, ba dật đề.

82. Tỳ kheo nào, tự mình cầm nắm bảo vật hay đồ trang sức bằng bảo vật, hoặc bảo người cầm nắm, trừ ở trong tăng già lam hay chỗ ký túc, ba dật đề. Nếu tùy theo khi ở trong tăng già lam hay chỗ ký túc mà tự mình cầm nắm bảo vật hay đồ trang sức bằng bảo vật hoặc bảo người cầm, nên nghĩ như vầy: “Nếu sở hữu chủ nhận ra sẽ lấy lại”. Chỉ với nhân duyên ấy chứ không gì khác.

83. Tỳ kheo nào, vào xóm phi thời mà không báo cho tỳ kheo khác biết, ba dật đề.

84. Tỳ kheo làm giường hoặc ghế, chân phải cao bằng tám ngón tay của Như lai, đã trừ phần từ lỗ mộng để ráp thành giường trở lên, nếu quá, ba dật đề, phải cắt bỏ.

85. Tỳ kheo nào, dùng bông đâu la dồn làm nệm lớn, nệm nhỏ lót giường, ghế, dồn thành, ba dật đề.

86. Tỳ kheo nào, dùng xương, ngà, sừng làm ống đựng kim, khoét và đục thành, ba dật đề.

87. Tỳ kheo nào, làm ni sư đàn, cần phải đúng lượng. Trong đây đúng lượng là dài hai gang tay và rộng một gang rưỡi tay Phật, rồi thêm dài và rộng nửa gang nữa làm lề, nếu quá, ba dật đề, phải cắt bỏ.

88. Tỳ kheo làm y che ghẻ, cần phải làm đúng lượng. Trong đây đúng lượng là bề dài bốn gang và rộng hai gang tay Phật, nếu quá, ba dật đề, phải cắt bỏ.

89. Tỳ kheo làm y tắm mưa, cần phải làm đúng lượng. Trong đây đúng lượng là bề dài sáu gang và rộng hai gang tay Phật, nếu quá, ba dật đề, phải cắt bỏ.

90. Tỳ kheo nào may y bằng lượng y của Như lai, hoặc may quá lượng ấy, ba dật đề. Trong đây, lượng y của Như lai là dài mười gang và rộng sáu gang tay Phật. Đây gọi là lượng y của Như lai.

Thưa các Đại đức, tôi đã tụng xong chín mươi pháp ba dật đề.

Nay hỏi các Đại đức trong đây có thanh tịnh không? (3 lần).

Các Đại đức trong đây thanh tịnh. Vì im lặng. Việc ấy tôi ghi nhận như vậy.

CHƯƠNG SÁU
BA LA ĐỀ ĐỀ XÁ NI

Thưa các Đại đức, đây là bốn pháp Ba la đề đề xá ni xuất từ Giới kinh, mỗi nửa tháng tụng một lần.

1. Tỳ kheo vào thôn xóm, nếu không bịnh mà tự tay nhận thức ăn từ tỳ kheo ni không phải thân quyến, và ăn, tỳ kheo ấy cần phải đối trước tỳ kheo khác mà phát lộ rằng: “Bạch Đại đức, tôi phạm pháp đáng khiển trách, làm điều không đáng làm. Nay đối trước Đại đức xin phát lộ sám hối”. Đây gọi là pháp hối quá.

2. Tỳ kheo ăn trong nhà bạch y, trong đó có một tỳ kheo ni chỉ bảo rằng: “Mang canh cho vị này, dâng cơm cho vị kia”. Tỳ kheo nên nói với tỳ kheo ni ấy rằng: “Này sư cô, hãy thôi. Hãy để yên các tỳ kheo thọ thực”. Nếu không có tỳ kheo nào nói với tỳ kheo ni ấy rằng: “Này sư cô, hãy thôi. Hãy để yên các tỳ kheo thọ thực”. Tỳ kheo ấy cần phải phát lộ rằng: “Bạch Đại đức, tôi phạm pháp đáng khiển trách, làm điều không đáng làm. Nay tôi đối trước Đại đức xin phát lộ sám hối”. Đây gọi là pháp hối quá.

3. Có các gia đình mà Tăng trước đã tác pháp kiết ma học gia, tỳ kheo nào biết đó là học gia, trước không được thỉnh, lại không bịnh, tự tay nhận thức ăn và ăn, tỳ kheo ấy cần đối trước tỳ kheo khác phát lộ rằng: “Tôi phạm pháp đáng khiển trách, làm điều không đáng làm. Nay tôi đối trước Đại đức xin phát lộ sám hối”. Đây gọi là pháp hối quá.

4. Tỳ kheo ở tại a lan nhã xa xôi, có nghi ngờ, đáng sợ hãi, tỳ kheo nào sống tại a lan nhã như vậy, trước không nói cho đàn việt biết, nếu không thọ nhận thức ăn bên ngoài tăng già lam, trái lại, không bịnh mà ở bên trong tăng già lam tự tay nhận thức ăn thì cần phải đối trước tỳ kheo khác mà phát lộ rằng: “Bạch Đại đức tôi phạm pháp đáng khiển trách, làm điều không đáng làm. Nay tôi đối trước Đại đức xin phát lộ sám hối”. Đây gọi là pháp hối quá.

Thưa các Đại đức, tôi đã tụng xong bốn pháp ba la đề đề xá ni.

Nay hỏi các Đại đức trong đây có thanh tịnh không? (3 lần).

Các Đại đức trong đây thanh tịnh. Vì im lặng. Việc ấy tôi ghi nhận như vậy.

CHƯƠNG BẢY
PHÁP CHÚNG HỌC

Thưa các Đại đức, đây là một trăm pháp Chúng học xuất từ Giới kinh, mỗi nửa tháng tụng một lần.

1. Phải bận niết bàn tăng cho tề chỉnh, cần phải học.

2. Phải khoác ba y cho tề chỉnh, cần phải học.

3. Không nên vắt ngược y khi đi vào nhà bạch y, cần phải học.

4. Không nên vắt ngược y khi ở trong nhà bạch y, cần phải học.

5. Không nên quấn y nơi cổ khi đi vào nhà bạch y, cần phải học.

6. Không nên quấn y nơi cổ khi ngồi trong nhà bạch y, cần phải học.

7. Không nên trùm đầu khi đi vào nhà bạch y, cần phải học.

8. Không nên trùm đầu khi ngồi trong nhà bạch y, cần phải học.

9. Không nên nhảy nhót khi đi vào nhà bạch y, cần phải học.

10. Không nên nhảy nhót khi ở trong nhà bạch y, cần phải học.

11. Không nên ngồi chồm hổm trong nhà bạch y, cần phải học.

12. Không nên chống nạnh khi đi vào nhà bạch y, cần phải học.

13. Không nên chống nạnh khi ngồi trong nhà bạch y, cần phải học.

14. Không nên uốn éo thân mình khi đi vào nhà bạch y, cần phải học.

15. Không nên uốn éo thân mình khi ngồi trong nhà bạch y, cần phải học.

16. Không nên đánh đồng xa khi đi vào nhà bạch y, cần phải học.

17. Không nên đánh đồng xa khi ngồi trong nhà bạch y, cần phải học.

18. Phải trùm kín thân thể khi đi vào nhà bạch y, cần phải học.

19. Phải trùm kín thân thể khi ngồi trong nhà bạch y, cần phải học.

20. Không nên nhìn ngắm ngang dọc khi đi vào nhà bạch y, cần phải học.

21. Không nên nhìn ngắm ngang dọc khi ngồi trong nhà bạch y, cần phải học.

22. Phải khẽ tiếng khi đi vào nhà bạch y, cần phải học.

23. Phải khẽ tiếng khi ngồi trong nhà bạch y, cần phải học.

24. Không được cười cợt khi đi vào nhà bạch y, cần phải học. 

25. Không được cười cợt khi ngồi trong nhà bạch y, cần phải học.

26. Phải dụng ý khi thọ nhận thức ăn, cần phải học.

27. Thọ nhận thức ăn vừa ngang bát, cần phải học.

28. Thọ nhận canh vừa ngang bát, cần phải học.

29. Ăn cơm và canh đồng đều, cần phải học.

30. Theo thứ lớp mà ăn, cần phải học.

31. Không nên moi giữa bát mà ăn, cần phải học.

32. Tỳ kheo không bịnh, không được vì mình yêu sách cơm canh, cần phải học.

33. Không nên dùng cơm che lâp canh để mong được thêm, cần phải học.

34. Không nên liếc nhìn vào trong bát người ngồi cạnh sanh hiềm tâm, cần phải học.

35. Phải chú tâm vào bát mà ăn, cần phải học.

36. Không nên ăn vắt cơm lớn, cần phải học.

37. Không nên há miệng lớn đợi cơm mà ăn, cần phải học. 

38. Không nên ngậm cơm mà nói, cần phải học.

39. Không nên vắt cơm thảy vào trong miệng, cần phải học.

40. Không nên ăn cơm rơi rớt, cần phải học.

41. Không nên búng má mà ăn, cần phải học.

42. Không nên nhai cơm có tiếng khi ăn, cần phải học.

43. Không nên hớp canh có tiếng mà ăn, cần phải học.

44. Không nên lấy lưỡi liếm khi ăn, cần phải học.

45. Không nên rảy tay khi ăn, cần phải học.

46. Không nên dùng tay lượm cơm rời mà ăn, cần phải học.

47. Không nên tay dơ cầm đồ đựng thức ăn, cần phải học.

48. Không nên đổ nước rửa bát trong nhà bạch y, cần phải học.

49. Không nên đại tiểu tiện, hỷ, nhổ lên rau cỏ tươi, trừ bịnh, cần phải học.

50. Không được đại tiểu tiện, hỷ, nhổ trong nước sạch, trừ bịnh, cần phải học.

51. Không nên đứng mà đại tiểu tiện, trừ bịnh, cần phải học.

52. Không nên thuyết pháp cho người vắt ngược áo không cung kính, trừ người bệnh, cần phải học.

53. Không nên thuyết pháp cho người quấn áo nơi cổ, trừ người bịnh, cần phải học.

54. Không nên thuyết pháp cho người trùm đầu, trừ người bịnh, cần phải học.

55. Không nên thuyết pháp cho người quấn khăn trên đầu, trừ người bịnh, cần phải học.

56. Không nên thuyết pháp cho người chống nạnh, trừ người bịnh, cần phải học.

57. Không nên thuyết pháp cho người mang dép da, trừ người bịnh, cần phải học.

58. Không nên thuyết pháp cho người mang guốc gỗ, trừ người bịnh, cần phải học.

59. Không nên thuyết pháp cho người ngồi trên ngựa, trừ người bịnh, cần phải học.

60. Không nên ngủ nghỉ trong tháp Phật, trừ canh giữ, cần phải học.

61. Không được chôn giấu tài vật trong tháp Phật, trừ muốn cho chắc chắn, cần phải học.

62. Không được mang dép da vào tháp Phật, cần phải học.

63. Không được tay cầm dép da đi vào tháp Phật, cần phải học.

64. Không được mang dép da đi nhiều lần quanh tháp Phật, cần phải học.

65. Không được mang giày phú la vào trong tháp Phật, cần phải học.

66. Không được xách giày phú la vào trong tháp Phật, cần phải học.

67. Không được ngồi dưới tháp mà ăn, lưu lại cỏ và thức ăn làm dơ đất, cần phải học.

68. Không được khiêng tử thi đi qua dưới tháp, cần phải học.

69. Không được chôn tử thi dưới tháp, cần phải học.

70. Không được thiêu tử thi dưới tháp, cần phải học.

71. Không được đối diện tháp thiêu tử thi, cần phải học.

72. Không được thiêu tử thi quanh bốn phía tháp Phật, cần phải học.

73. Không được mang áo và giường người chết đi qua dưới tháp Phật, cần phải học.

74. Không được đại tiểu tiện dưới tháp Phật, cần phải học.

75. Không được đại tiểu tiện đối diện tháp Phật, cần phải học.

76. Không được đại tiểu tiện quanh bốn phía tháp Phật, cần phải học.

77. Không được mang tượng Phật đến chỗ đại tiểu tiện, cần phải học.

78. Không được nhăn nhành dương (đánh răng súc miệng) quanh bốn phía tháp Phật, cần phải học.

79. Không được nhăn nhành dương (đánh răng súc miệng) đối diện tháp Phật, cần phải học.

80. Không được nhăn nhành dương (đánh răng súc miệng) quanh bốn phía tháp Phật, cần phải học.

81. Không được hi nhổ trước tháp Phật, cần phải học.

82. Không được hi nhổ đối diện với tháp Phật, cần phải học.

83. Không được hi nhổ quanh bốn phía tháp Phật, cần phải học.

84. Không được ngồi duỗi chân về phía tháp Phật, cần phải học.

85. Không đặt (thờ) tháp (nhỏ) ở phòng dưới, mình ở trên, cần phải học.

86. Không nên thuyết pháp cho người ngồi mà mình đứng, trừ người bịnh, cần phải học.

87. Không nên thuyết pháp cho người nằm mà mình ngồi, trừ người bịnh, cần phải học.

88. Không nên thuyết pháp cho người ngồi chính giữa còn mình ngồi một bên, cần phải học.

89. Không nên thuyết pháp cho người ngồi chỗ cao còn mình ngồi chỗ thấp, trừ người bịnh, cần phải học.

90. Không nên thuyết pháp cho người đi phía trước còn mình đi phía sau, trừ người bịnh, cần phải học.

91. Không nên thuyết pháp cho người ở chỗ kinh hành cao còn mình ở chỗ kinh hành thấp, trừ người bịnh, cần phải học.

92. Không nên thuyết pháp cho người ở giữa đường còn mình ở bên đường, trừ người bịnh, cần phải học.

93. Không nên nắm tay khi đi đường, cần phải học.

94. Không nên leo lên cây cao quá đầu người, trừ khi có nhân duyên, cần phải học.

95. Không được để bình bát vào trong đãy, xỏ vào đầu gậy quảy trên vai mà đi, cần phải học.

96. Không nên thuyết pháp cho người cầm gậy, không cung kính, trừ người bệnh, cần phải học.

97. Không được thuyết pháp cho người cầm gươm, trừ người bịnh, cần phải học.

98. Không nên thuyết pháp cho người cầm mấu, trừ người bịnh, cần phải học.

99. Không được thuyết pháp cho người cầm dao, trừ người bịnh, cần phải học.

100. Không nên thuyết pháp cho người cầm dù, trừ người bịnh, cần phải học.

Thưa các Đại đức, tôi đã tụng xong một trăm pháp chúng học.

Nay hỏi các Đại đức trong đây có thanh tịnh không? (3 lần).

Các Đại đức trong đây thanh tịnh. Vì im lặng. Việc ấy tôi ghi nhận như vậy.

CHƯƠNG TÁM
PHÁP DIỆT TRÁNH

Thưa các Đại đức, đây là bảy pháp Diệt tránh xuất từ Giới kinh, mỗi nửa tháng tụng một lần. 

Nếu có tránh sự nổi lên giữa các tỳ kheo, tức thì phải trừ diệt.

1. Cần giải quyết bằng hiện tiền tỳ ni, phải giải quyết bằng hiện tiền tỳ ni.

2. Cần giải quyết bằng ức niệm tỳ ni, phải giải quyết bằng ức niệm tỳ ni.

3. Cần giải quyết bằng bất si tỳ ni, phải giải quyết bằng bất si tỳ ni.

4. Cần giải quyết bằng tự ngôn trị, phải giải quyết bằng tự ngôn trị.

5. Cần giải quyết bằng mích tội tướng, phải giải quyết bằng mích tội tướng.

6. Cần giải quyết bằng đa nhân mích tội tướng, phải giải quyết bằng đa nhân mích tội tướng.

7. Cần giải quyết như thảo phú địa, phải giải quyết như thảo phú địa.

Thưa các Đại đức, tôi đã tụng xong bảy pháp diệt tránh.

Nay hỏi các Đại đức trong đây có thanh tịnh không? (3 lần).

Các Đại đức trong đây thanh tịnh. Vì im lặng. Việc ấy tôi ghi nhận như vậy.

CHƯƠNG KẾT
I. KẾT THUYẾT

Thưa các Đại đức, tôi đã tụng tựa của Giới kinh, đã tụng bốn pháp ba la di, đã tụng mười ba pháp tăng già bà thi sa, đã tụng hai pháp bất định, đã tụng ba mươi pháp ni tát kỳ ba dật đề, đã tụng chín mươi pháp ba dật đề, đã tụng bốn pháp ba la đề đề xá ni, đã tụng các pháp chúng học, đã tụng bảy pháp diệt tránh. Đó là những điều Phật đã thuyết, xuất từ Giới kinh, mỗi nửa tháng tụng một lần. Và còn có các Phật pháp khác nữa, trong đây cần phải cùng hòa hiệp học tập.

II. THẤT PHẬT GIỚI KINH

1. Nhẫn : khổ hạnh bậc nhất.

Niết bàn : đạo tối thượng.

Xuất gia, não hại người,

Không xứng danh sa môn.

Đây là Giới kinh mà đức Tỳ bà thi Như lai, bậc Vô sở trước, Đẳng chánh giác, đã giảng dạy.

2. Cũng như người mắt sáng

Tránh khỏi lối hiểm nghèo,

Bậc có trí trong đời

Tránh xa các xấu ác.

Đây là Giới kinh mà đức Thi khí Như lai, bậc Vô sở trước, Đẳng chánh giác, đã giảng dạy.

3. Không báng bổ, tật đố,

Vâng hành các học giới,

Ăn uống biết vừa đủ,

Thường ưa chỗ nhàn tịnh,

Tâm định, vui tinh tấn.

Là lời chư Phật dạy.

Đây là Giới kinh mà đức Tỳ diếp la Như lai, bậc Vô sở trước, Đẳng chánh giác, đã giảng dạy.

4. Như ong đến tìm hoa

Không hại sắc và hương

Chỉ hút nhụy rồi đi.

Vậy tỳ kheo vào xóm,

Không dòm ngó việc người

Người làm hay không làm,

Chỉ xét hành vi mình

Đoan chính không đoan chính.

Đây là Giới kinh mà đức Câu lưu tôn Như lai, bậc Vô sở trước, Đẳng chánh giác, đã giảng dạy.

5. Chớ để tâm buông lung,

Hãy cần học thánh pháp,

Như thế, dứt ưu sầu.

Tâm định, nhập niết bàn.

Đây là Giới kinh mà đức Câu na hàm Mâu ni Như lai, bậc Vô sở trước, Đẳng chánh giác, đã giảng dạy.

6. Hết thảy ác chớ làm.

Hãy vâng hành các thiện.

Tự lóng sạch tâm chí.

Là lời chư Phật dạy.

Đây là Giới kinh mà đức Ca diếp Như lai, bậc Vô sở trước, Đẳng chánh giác, đã giảng dạy.

7. Khéo phòng hộ lời nói,

Tâm chí, tự lắng trong, 

Thân không làm các ác;

Thực hành được như thế,

Ba tịnh nghiệp đạo này

Là đạo đấng Đại tiên.

Đây là Giới kinh mà đức Thích ca Mâu ni Như lai, bậc Vô sở trước, Đẳng chánh giác, đã giảng dạy cho các tỳ kheo vô sự trong khoảng mười hai năm đầu. Từ đó về sau được phân biệt rộng rãi. Các tỳ kheo tự mình hâm mộ chánh pháp, hâm mô sa môn hành, có tàm có quý, hâm mộ học giới, hãy tu học ở trong đây.

III. KHUYẾN GIỚI. 

1. Kẻ trí khéo hộ giới,

Sẽ được ba điều vui:

Danh thơm và lợi dưỡng

Sau khi chết sanh thiên.

2. Hãy quán sát điều này:

Bậc trí siêng hộ giới,

Giới tịnh, sanh trí huệ,

Thành tựu Đạo tối thượng.

3. Như chư Phật quá khứ,

Và chư Phật vị lai,

Các Thế tôn hiện tại,

Đấng chiến thắng khổ đau,

Thảy đều tôn kính Giới.

Đấy là pháp chư Phật.

4. Nếu ai vì tự thân

Mong cầu nơi Phật đạo

Hãy tôn trọng chánh pháp

Đây lời chư Phật dạy.

5. Bảy đấng Thế tôn Phật,

Diệt trừ mọi kiết sử 

Thuyết bảy Giới kinh đây

Giải thoát các hệ phược.

Các ngài đã niết bàn,

Các lý luận vắng bặt.

6. Các đệ tử tuân hành

Lời dạy đấng Đại tiên.

Giới thánh hiền khen ngợi,

Thảy đều nhập niết bàn.

7. Thế Tôn khi niết bàn

Vận khởi tâm đại bi

Họp các tỳ kheo chúng

Ban giáo Giới như vầy:

8. Chớ nghĩ ta niết bàn

Không còn ai chăn dắt,

Giới kinh và Tỳ ni

Những điều ta dạy rõ,

Hãy xem đó như Phật.

Dù ta nhập niết bàn.

9. Giới kinh này còn mãi,

Phật pháp còn sáng rỡ.

Do sự sáng rỡ ấy

Niết bàn được chứng nhập.

10. Nếu không trì giới này

Không bố tát như pháp

Khác gì mặt trời lặn

Thế giới thành tối tăm.

11. Hãy hộ trì giới ấy,

Như trâu mao tiếc đuôi

Hòa hiệp ngồi một chỗ

Như lời Phật đã dạy.

12. Tôi đã thuyết Giới kinh,

Chúng Tăng bố tát xong.

13.Tôi nay thuyết Giới kinh,

Công đức thuyết giới này,

Nguyện ban khắp chúng sanh,

Cùng trọn thành Phật đạo.

Giới Tỳ Kheo Ni nghĩa

Tác giả Website có nguyên bản phiên âm Hán-Việt theo bản khắc gỗ Tỳ-kheo giới kinh 1814-1817